Nguyễn Hiến Lê (1912-1984) sinh tại Hà Nội, nguyên quán ở Quảng Oai, Sơn Tây (Hà Tây). Sau khi tốt nghiệp Cao đẳng Công chánh (1934), được điều vào Nam Bộ công tác. ở đây ông đã viết văn và nghiên cứu văn hoá. Là tác giả và dịch giả của 122 tác phẩm, 250 bài báo và 23 đề tựu cho công trình các bạn bè, Nguyễn Hiến Lê là một tấm gương lao động miệt mài và có khoa học trong lĩnh vực truyền bá văn hoá
.Cuối năm 1999, một con đường nhỏ, dài khoảng 340 mét, rộng 12 mét, nằm ở phường 13, quận Tân Bình, đã vinh dự được mang tên Nguyễn Hiến Lê, một nhà văn hóa.
Ông sinh ngày thứ Hai, 08-01-1912, tuy nhiên giấy khai sinh ghi muộn hơn ba tháng. Theo âm lịch, ông sinh ngày 20 - 11, nhằm năm Tân Hợi, tháng Tân Sửu, ngày Quý Mùi, giờ Tân Dậu. Nghiên cứu khoa tử vi, ông nhận xét rằng người nào tuổi về phần can trúng nhằm bốn chữ Canh, Tân, Mậu, Kỷ thường có nỗi khổ riêng ẩn giấu nơi lòng. Phải chăng ông đã nghiệm từ chính đời mình? và ông miệt mài viết văn, làm sách có lẽ cũng để cho phần nào vơi đi nỗi niềm ấy?
Ông chào đời tại nhà số 4, ngõ Phất Lộc, Hà Nội, cái ngõ đã đi vào bộ tranh Phố Phái bất hủ của danh họa Bùi Xuân Phái, và Nguyễn Hiến Lê, con người đã cất tiếng khóc chào đời ở khu phố cổ đó, cũng đã đi vào thế giới vĩnh hằng của những danh nhân bất hủ.
Sinh ở ngõ Phất Lộc nên ông lấy hiệu Lộc Đình, và bác Ba của ông chỉ gọi ông bằng hiệu Lộc Đình. Người bác này hiệu Phương Khê, lấy theo tên làng Phương Khê, phủ Quảng Oai, tỉnh Sơn Tây, cũng là quê nội, nơi ngôi mộ cụ tổ sáu đời của Nguyễn Hiến Lê đã kết theo kiểu "bút gối sau đầu". Các thầy địa lý bảo vì vậy con cháu tuy học giỏi nhưng thi cử lận đận. Hư thực thế nào chẳng biết, có điều ông nội Nguyễn Hiến Lê chỉ đỗ Tú tài.
Ông Tú có bốn con trai. Con thứ hai tên Cổn, hiệu Đạo Quýnh, học giỏi, không đi thi, làm hương sư dạy học trong làng. Cũng học giỏi mà ghét thi cử còn có người con cả, tên Nhuận, hiệu Tùng Hương, không chịu lấy vợ, gia nhập phong trào Đông kinh Nghĩa thục, rồi trốn qua Trung Quốc theo nhà cách mạng Phan Bội Châu, bặt luôn tin tức. Con thứ ba tên Côn, hiệu Phương Khê, văn chương thi phú giỏi, nhưng rớt một khóa thi Hương thì bỏ luôn, gia nhập Đông kinh Nghĩa thục, cưới vợ là cô Năm, con gái nhà cách mạng Lương Văn Can, thủ trưởng Nghĩa thục.
Khi Nghĩa thục bị thực dân Pháp đàn áp ở Hà Nội, ông Phương Khê thoát vào Nam. Sau này viết về Đông kinh Nghĩa thục (1956) Nguyễn Hiến Lê đã không giấu tình cảm của ông đối với hai người bác đáng kính.
Thân phụ Nguyễn Hiến Lê là con út, tên Bí, hiệu Đặc Như, có chút tính nghệ sĩ, ham chơi, học kém hơn các anh, dạy con rất nghiêm khắc. Nguyễn Hiến Lê là trưởng nam, sau ông còn một em trai, hai em gái. Trước ngày Nguyễn Hiến Lê chào đời, ông Đặc Như nằm mộng, thấy cụ già râu tóc bạc phơ, chống gậy đến trao cho quả lê, vì thế đặt tên con là Hiến Lê (hiến tặng quả lê). Mẹ Nguyễn Hiến Lê tên Sâm, sớm mồ côi cha, mẹ bà làm lược nuôi con. Bà Sâm không biết chữ, rất đảm đang, biết dạy con. Bà và người anh chồng (ông Phương Khê) đã sớm ảnh hưởng rất nhiều đối với sự nghiệp của Nguyễn Hiến Lê sau này.
Nguyễn Hiến Lê lên mười thì cha mất sớm, ba mươi bốn tuổi. Nguyễn Hiến Lê đang học lớp Dự bị (Préparatoire) trường Yên Phụ, sức học trung bình. Cảnh nhà khó khăn, mẹ ông đầu tắt mặt tối buôn bán trái cây ở chợ Đồng Xuân, Hà Nội, nhẫn nại nuôi bốn con nhỏ dại và mẹ già. Trên tạp chí Mai số 29, ngày 10-9-1961, Nguyễn Hiến Lê không giấu giếm cái nghèo của mẹ con ông: "Tôi sinh trong một gia đình nghèo, thường bị họ hàng khinh rẻ, ức hiếp, lắm lúc chúng tôi tủi nhục đến rớt nước mắt."(1)
Thiếu người kèm cặp, Nguyễn Hiến Lê lêu lổng, Ở lại hai năm rưỡi ở lớp Dự bị mới lên nổi lớp Sơ đẳng. Từ lớp Nhì (cours Moyen) bắt đầu chăm học, rồi đứng đầu lớp Nhất (cours Supérieur). Cậu học trò giỏi đó đã vượt qua những ngày đói lạnh ấu thơ như thế nào? Trên tạp chí Mai, số 39, ngày 10-02-1962, Nguyễn Hiến Lê tâm sự: "Tôi đã qua cái cảnh, buổi sáng rét căm căm, gió bấc thổi lồng lộng, bận có hai cái áo mỏng, đi mua một củ khoai lang một trinh hoặc một khúc khoai mì một xu rồi đi chân đất dưới mưa phùn để tới trường cách nhà trên hai cây số, ngồi học ba bốn giờ rồi lại đi bộ về nhà. Có lúc đói quá, lạnh quá, không nghe được lời giảng của thầy nữa. Giá hồi đó tôi có thêm một xu mỗi ngày để ăn và vài ba tháng có thêm được vài hào để mua sách ..."(2).
Năm 1925, Nguyễn Hiến Lê thi vô trường Bưởi (Collège du Protectorat), nhưng rớt; năm sau đậu. Học tới đệ Tứ niên, thường nhất lớp. ở trường Bưởi, ông được học với các bậc thầy tên tuổi đáng kính như: Dương Quảng Hàm, tác giả Việt Nam Văn học Sử yếu, Việt Nam Thi văn Hợp tuyển; Thẩm Quỳnh, dịch giả Kinh Thư; Nguyễn Gia Tường, anh của danh họa Nguyễn Gia Trí... Lần lượt, Nguyễn Hiến Lê thi đậu Cao đẳng Tiểu học (Diplôme d'Etudes primaires supérieures franco indigène); thi vào trường Cao đẳng Công chánh đậu thủ khoa, được học nội trú và hàng tháng lãnh sáu đồng rưỡi học bổng. Thi tốt nghiệp tháng 6-1934, đậu hạng sáu. Tháng 10, được bổ vào làm việc trong Nam. Sau này, khoảng tháng 02-1944 (tháng Giêng Giáp Thân), ông có trở ra Bắc thi vô ngạch kỹ sư công chánh, nhưng không đậu. Sở Thủy lợi ở Long Xuyên giao ông công tác đo mực nước ở miền Tây.
Làm xong việc, ông còn rất nhiều thì giờ rảnh. Không biết làm chi cho hết ngày, ông phải tìm đủ mọi sách để đọc, chép nhật ký, viết hồi ký cho đỡ nhớ quê nhà miền Bắc xa xôi. Ông kể: "Cầm bút lúc nào là tâm hồn tôi rung động nhè nhẹ lúc ấy, như được nghe một bản nhạc êm đềm, bản nhạc của cố hương và dĩ vãng. "Viết hồi ký để ôn lại cái vui đã qua thì viết nhật ký để ghi lại cái vui hiện tại (...). "Tôi cứ nhớ đâu chép đó, viết bừa đi, chẳng cần bố cục, cũng chẳng sửa, viết có khi quên giờ giấc, và đặt cây bút xuống, nhìn lên bờ thì làng xóm đã lờ mờ sau làn sương mỏng."(3).
Đọc sách và viết say mê như vậy vẫn dư thời gian, ông xoay ra tự học chữ Hán. Lúc nhỏ ông được cha dạy vỡ lòng một ít, chừng năm rưỡi. Hè 1928, ông vừa học xong năm thứ Nhất trường Bưởi, được mẹ đưa về quê nội ở Phương Khê học chữ Hán với bác Hai. Ông học hai kỳ hè, mỗi kỳ khoảng hai tháng, mỗi ngày được bác kèm cho chừng một giờ.
Cuối đời, khi đã nổi danh là dịch giả uy tín, trong số trên một trăm hai mươi đầu sách, có trên hai mươi công trình giá trị viết riêng về văn, triết, sử Trung Quốc, Nguyễn Hiến Lê không khỏi chạnh lòng nghĩ nhớ đến bà mẹ quê mùa mù chữ của mình: "Ngay năm đầu tôi học trường Bưởi, mẹ tôi đã có một quyết định, khiến đời tôi sau này theo một hướng mà chính người và các bác tôi không ai có thể ngờ được. Ngày nay càng nghĩ lại tôi càng thấy cái công lớn của người và càng không hiểu đã có gì xui khiến cho người nảy ra quyết định đó."(4).
Tốt nghiệp Cao đẳng Công chánh (tháng 6-1934), trong suốt năm tháng chờ được bổ nhiệm công tác, ông tự học chữ Hán chứ không về làng Phương Khê nữa vì bác Hai đã qua đời: "Mỗi ngày, buổi chiều, tôi lại Thư viện Trung ương ở đường Trường Thi, mượn bộ Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh mới xuất bản hai năm trước (1932) rồi bắt đầu từ chữ A, tìm những từ và từ ngữ nào mà tôi đoán là thường dùng mà chưa biết thì tôi chép lại trong một tập vở, mỗi ngày chép độ ba bốn chục từ; tôi lại mượn cuốn Grammaire Chinoise của Cordier cũng chép lại những điều quan trọng. Tôi ở thư viện từ ba đến năm, sáu giờ chiều. Tối hôm đó và sáng hôm sau, tôi học hết những trang ghi đó; rồi chiều lại ra thư viện chép bài học sau. Mỗi tuần tôi nghỉ một ngày để ôn lại những bài trong tuần..."(5).
Sau ba tháng, học được chừng ba ngàn từ, ông mượn được bộ Tam Quốc chí in thạch bản, có lời bình của Kim Thánh Thán. Vì đã biết cốt chuyện rồi, ông đọc không quá khó, lúc đầu chậm, sau quen, và rất thích lời bình của Kim. Đọc vừa xong Tam Quốc chí ông nhận được giấy bổ vào Nam công tác.
Năm 1937 (hay 1938?), ông về Sài Gòn làm việc. Mỗi ngày rảnh được buổi tối và mỗi tuần rảnh được cả ngày Chủ nhật. Không biết nhậu, ghét đánh bài, chẳng thích đánh cờ, học đàn vài tháng thì bỏ, không ưa tụ tập bạn bè tán gẫu; làm sao cho qua hết giờ nhàn rỗi? Chỉ còn cách tự học và đọc sách mà
thôi. Ông luôn luôn đọc sách với cây viết chì. Chỗ nào hay ông đánh dấu + ở lề; chỗ dở đánh dấu –. Các ý quan trọng thì ghi tóm tắt kèm với số trang; mà ghi ngay ở các trang bỏ trắng ở đầu hay cuối sách (page de garde), giống như làm index hay mục lục chi tiết cho riêng ông tham khảo khi cần.
Sau 1945 , ông bỏ luôn nghề công chức, về làng Tân Thạnh, ở khoảng giữa Hồng Ngự và Cao Lãnh, học đông y và chữ Hán với bác Ba Phương Khê (tháng 10-1945). Năm 1950, nể lời bạn đã ba lần khẩn khoản mời, ông ra dạy học tại trường trung học công lập Thoại Ngọc Hầu, Long Xuyên, dạy đủ các môn từ khoa học tới sinh ngữ. Lúc này ông bắt đầu viết sách. Tổ tiên ông hai bên nội ngoại đều không ai viết văn. Bản thân ông lúc đầu lại vào ngành kỹ thuật. Trước năm 1950 ông không có ý định viết sách, không tính tới chuyện sống hoàn toàn bằng nghề văn. Tác phẩm đầu tiên được xuất bản là Tổ chức công việc theo khoa học.
Dạy ba niên khóa, ông xin thôi và đơn được chấp thuận (tháng 9-1953). Sau này về Sài Gòn, được một số trường mời đến dạy, ông cương quyết từ chối, vì muốn dành hết thời giờ cho việc tự học, biên khảo, dịch thuật, nghiên cứu... Không làm nhà giáo trên bục giảng, ông vẫn là nhà giáo dục có tâm huyết và
lương tri. Một số sách do ông soạn hoặc dịch đã hướng dẫn nhiều người trên đường học vấn, như: Bí quyết thi đậu các bằng cấp trung học; Kim chỉ nam của học sinh; Luyện văn; Muốn giỏi toán hình học phẳng; Muốn giỏi toán hình học không gian; Muốn giỏi toán đại số; Tự học một nhu cầu thời đại, v.v...
Nặng lòng với giáo dục, năm 1962 ông viết loạt năm bài Cải tổ nền giáo dục Việt Nam. Năm 1972, ba bài Nguy cơ xuất não bàn biện pháp giữ nhân tài du học nước ngoài về. Tất cả đều đăng tạp chí Bách khoa. Năm 1961 trên Bách khoa, và năm 1966 trên Tin văn, ông kịch liệt đả kích Bộ Giáo dục và Viện
Đại học Sài Gòn không chịu dùng tiếng Việt làm chuyển ngữ ở đại học. Ngoài ra, ông còn hàng trăm đề tài giáo dục khác mà từ đầu những năm 50 cho tới 1975, đã đăng các báo: Bách khoa; Đại học; Giáo dục phổ thông; Mai; Tân văn; Tin văn; Văn; Văn hóa nguyệt san, v.v...
Nguyễn Hiến Lê dịch nhiều thể loại sách, nghiên cứu, khoa học, văn chương... tiếng Pháp, tiếng Anh, và đặc biệt là chữ Hán. Bản dịch tiếng Pháp đầu tay của ông là Huấn luyện tình cảm (của P. Félix Thomas); bản dịch tiếng Anh đầu tay là Đắc nhân tâm (của Dale Carnegie). Yêu mến và sành tiếng Việt, giỏi cả Hán, Pháp, Anh, ở cương vị một người dịch, ông quan niệm: "... tôi nghĩ rằng văn thơ cũng như nhạc, dịch một bài văn, một bài thơ, cũng như diễn một bản nhạc, cũng là làm công việc sáng tạo mặc dầu dịch rất sát không thêm bớt. Dịch giả – nếu có tài – cũng là một nghệ sĩ, và mỗi bản dịch cũng là một nghệ phẩm. Không một bản dịch nào đúng hẳn với nguyên tác; bản dịch nào cũng mang ít nhiều cá tính, tài năng của người dịch, tinh thần của ngôn ngữ người dịch, cũng để lộ tâm tư của người dịch, cái không khí của thời đại người dịch."(6).
Đầu năm 1971, tính theo tuổi ta thì ông sắp vào cái ngưỡng mà Đỗ Phủ gọi là cổ lai hi. Nhà thơ Bàng Bá Lân hỏi xem ông đã định gác bút nghỉ viết chưa. Thư ông trả lời: "Viết đều đều trên hai chục năm rồi, tôi muốn nghỉ lắm chứ, nhưng còn chiến tranh thì không thể nghỉ được (...) Còn chiến tranh thì làm sao vui được? Chẳng những việc nước không yên mà việc nhà của chúng ta cũng không yên, không thể quyết định một chút gì trong tương lai cả, ngay đến đời sống của mình cũng không có gì bảo đảm. Sở dĩ tôi phải cặm cụi viết một phần lớn là để tạm quên những ưu tư đó đi"(7).
Đối với Nguyễn Hiến Lê, ngoài ý chí miệt mài học để viết và viết không mệt mỏi để học, thì độc giả là quan trọng, kỳ dư danh vọng hay thế quyền không hề có chỗ trong tâm tưởng. Chính quyền Sài Gòn, Ngô Đình Diệm rồi Nguyễn Văn Thiệu, ba lần mời ông làm giám khảo cuộc thi văn chương toàn quốc, mời vào ủy ban Dịch thuật, và ủy ban Điển chế Văn tự của Bộ Văn hóa, vào Hội đồng Giáo dục Toàn quốc, ông đều nhất quyết từ khước. Năm 1973, Phủ Quốc vụ khanh Đặc trách Văn hóa (Sài Gòn) muốn trao tặng ông Giải Tuyên dương Sự nghiệp Văn chương - Học thuật - Mỹ thuật, ông cũng từ chối. Mãi mãi ông vẫn giữ đúng vị trí một nhà giáo dục, một nhà văn hóa độc lập, thanh cao, tự trọng.
Ông thổ lộ: "Soạn sách, tôi chỉ nhắm mục đích: tự học và giúp người khác tự học. Tôi nghĩ đến cái lợi của độc giả trước hết, chẳng hề tự cho mình có "sứ mạng" gì cả, mà cũng không hề mong được nổi tiếng (...). Có thích vấn đề nào thì tôi mới viết. Thấy vui trong khi viết, bấy nhiêu đủ cho tôi rồi."(8).
Ông viết và dịch đủ loại: giáo dục, quản trị, kinh tế, chính trị, sách học làm người, ngữ học, văn học và lịch sử thế giới, tiểu truyện danh nhân, du ký, hồi ký, bình văn điểm sách... Chẳng riêng những sách và bài báo chuyên khảo về tiếng Việt, đọc văn ông, người ta cảm thấy toát ra lòng yêu mến tiếng Việt thiết tha, và sự trân trọng chăm chút để gìn giữ và phát huy tính nhuần nhụy, trong sáng của tiếng Việt.
Có lẽ bên cạnh những thể loại đa dạng thì quan trọng hơn hết vẫn là Trung Quốc học (văn chương, lịch sử, triết học). Đây là lĩnh vực mà Nguyễn Hiến Lê có nhiều đóng góp ý nghĩa cho nền tảng nghiên cứu Trung Quốc học ở Việt Nam qua hai mươi hai công trình tiêu biểu như sau: Chiến quốc sách; Cổ văn Trung Quốc; Đại cương triết học Trung Quốc; Đại cương văn học sử Trung Quốc; Hàn Phi Tử; Kinh Dịch: đạo của người quân tử; Khổng Tử; Lão Tử Đạo đức kinh; Lịch sử văn minh Trung Quốc; Liệt Tử và Dương Tử; Luận ngữ; Mạnh Tử; Mặc học; Nhà giáo họ Khổng; Nhân sinh quan và thơ văn Trung Hoa; Nho giáo: một triết lý chính trị; Sử ký Tư Mã Thiên; Sử Trung Quốc; Tô Đông Pha; Trang Tử Nam Hoa kinh; Tuân Tử; Văn học Trung Quốc hiện đại.
Cho tới năm 1975, ông xuất bản được một trăm tác phẩm. Từ 1975 tới ngày mất, hoàn thành thêm hai mươi hai công trình nữa. Viết khoảng hai trăm năm mươi bài báo, mà khoảng một nửa trong số đó vẫn chưa gom lại in thành sách. Đề tựa cho hai mươi ba tác phẩm về biên khảo, thơ, tùy bút... mà hầu như bài tựa nào cũng được khen là tài tình. Mười chín người vinh dự được ông đề tựa tác phẩm là: Bàng Bá Lân, Châu Hải Kỳ, Cung Duy Độ, Đỗ Hồng Ngọc, Đông Hồ, Đông Xuyên (3 lần), Hoàng Xuân Việt, Huy Lực, Huỳnh Phan, Lam Giang, Nguyễn Đình Tư, Nguyễn Huy Khánh, Nguyễn Hữu Ngư (tức Nguyễn Ngu ý), Nguyễn Hữu Phiếm (2 lần), Nguyễn Văn Hầu, Phạm Phú Hoài Mai, Toan ánh, Trần Thúc Linh (2 lần), Võ Phiến.
Dường như thần thoại kể rằng, xưa kia có một loài linh điểu, khi sắp giã từ thế gian này, những tiếng hót sau cùng của chim lại là tiếng hót ngọt nhất, hay nhất mà chim dồn hết tinh huyết và thần lực ra thi thố, để tận hiến cuộc đời lần cuối. Những tác phẩm cuối đời của Nguyễn Hiến Lê có lẽ chẳng khác gì
tiếng chim linh thần thoại lãng mạn ấy. Thực vậy, trong mười năm sau cùng (1975-1984), sức khoẻ ông càng cạn kiệt vì tuổi tác và tật bệnh, thì ngược lại, sách ông viết càng sâu sắc, càng phong phú và giá trị hơn.
Và rồi ông bệnh, mất ngày 22-12-1984 tại Sài Gòn, hỏa táng tại Thủ Đức. Đến nay, hai mươi hai bản thảo để lại đã in gần hết! Những sách đã in trước 1975 vẫn tiếp tục in lại đều đặn. Một năm có khi hai hay ba nhan đề cũ và mới cùng được ấn hành. Nguyễn Hiến Lê có cái vinh dự được là tác gia của ba
thế hệ: thế hệ những người đồng tuổi ông; thế hệ con cái những người đó, kể cả lớp học trò cũ của ông; và thế hệ trẻ hôm nay đang cắp sách ở trung học, đại học, hay vừa rời ghế giảng đường, tập tễnh bước chân vào chốn trường đời.
Xưa nay không hiếm những tác giả mà người đọc chỉ nên đứng xa xa để chime ngưỡng, vì họ sống không đúng như họ viết. Đức Lão Tử dạy: Tri giả bất ngôn, ngôn giả bất tri (Người biết chẳng nói, người nói chẳng biết). Trộm nghĩ, với Nguyễn Hiến Lê, câu ấy có thể sửa lại là: Tri giả năng ngôn, ngôn giả năng hành (Người biết hay nói, người nói hay làm). Ngày xưa, đức Khổng Tử có lần than phiền: "Trước kia, nghe ai nói, ta tin rằng đức hạnh của họ hợp với lời của họ. Ngày nay thì ta đâm ngờ, phải quan sát xem hành động của họ có đúng với lời họ nói không." (Luận ngữ, Công Dã
Tràng, 9). Với Nguyễn Hiến Lê, đức Khổng thánh, bậc Vạn thế Sư biểu, có thể không cần phải giữ thái độ thận trọng, dè dặt xét nét như vậy.
Quả thực, ai có dịp gần gũi ông nhiều, đọc sách của ông, cũng đều thừa nhận rằng Nguyễn Hiến Lê biết sao thì nói đúng, viết đúng như đã biết, và cũng làm đúng, sống đúng như chính ông đã nói đã viết.
Khoảng trước năm 1945, nhân khi đọc xong một vài bản thảo của ông, bác Ba Phương Khê tặng ông câu đối:
Học bản tu thân, thân tức quốc;
Nhân năng bạt tục, tục nhi tiên.
(Học gốc ở tu thân, thân mình là nước;
Người tư cách bạt tục, tuy tục mà tiên.)
Bản thân Nguyễn Hiến Lê vào khoảng năm 1946 hay 1947 cũng làm câu đối:
Trị ái thư, loạn ái thư, thư trung hữu hữu;
Bần dĩ đạo, phú dĩ đạo, đạo ngoại không không.
(Trị yêu sách, loạn yêu sách, trong sách chi chi cũng có;
Nghèo giữ đạo, giàu giữ đạo, ngoài đạo thảy thảy đều không.)
Cả hai câu đối đó, ngẫm cho cùng, đều phản ánh rất đúng cốt cách nho phong, chí hướng bạt tục, cuộc đời giản dị, và sự nghiệp văn hóa không nhỏ của Nguyễn Hiến Lê đối với dân tộc Việt Nam. Suốt cuộc đời cầm bút trong sang như viên ngọc không chút tì vết, Nguyễn Hiến Lê chưa một lần tự gán cho bản
thân bốn chữ "Văn dĩ tải đạo", nhưng đến nay những ai đọc ông có lẽ đều tâm phục và ngưỡng kính cảm nhận rằng con người ấy quả thực đã hiến trọn đời mình để chở chuyên đạo lý.
Đời ông bảy mươi ba năm, từ ấu thơ cho đến khi quay lưng đi vào cõi vĩnh hằng, đã kinh qua biết bao nỗi thăng trầm bi tráng của lịch sử một đất nước chiến tranh ly loạn triền miên. Nhưng ông đã tự chọn cho mình một con đường tu thân, tu đức, trau giồi học vấn không ngừng. Ông miệt mài đem trí tuệ mẫn tiệp, sức học uyên bác, lương tri và tâm huyết... để bằng nghị lực phi thường lướt qua những bệnh tật đeo đẳng tấm thân mảnh khảnh, và đã lặng lẽ nuốt nỗi khổ riêng vào tận đáy lòng, để cho những dòng chữ lời văn của ông mãi mãi chỉ tinh tuyền là hương thơm vị ngọt và vẻ mỹ miều của một tình yêu quê hương đằm thắm và một lòng nhân ái kín đáo./.
Lê Anh Dũng
Link:http://www.giaodiemonline.com/noidung_detail.php?newsid=2522
No comments:
Post a Comment