Tuesday, June 30, 2009

Chữ "Lễ" trong Khổng Giáo

Những khái niệm của Khổng Giáo như Nhân, Nghĩa, Trí, Tín thường được nhiều người biết tới và hiểu được tầm quan trọng của nó. Riêng chữ "Lễ" thì dường như người ta rất hời hợt vì nó không ảnh hưởng nhiều tới cuộc sống hiện tại bằng bốn khái niệm kia. Tuy chữ "Lễ" rất bình thường, nhưng tầm quan trọng của nó cũng không kém những khái niệm khác. Vì tầm quan trọng của nó nên chữ "Lễ" được đứng thứ hai sau chữ "Nhân" theo thứ tự "Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín". Ngày nay, vì cuộc sống sô bồ mà chữ "Lễ" không được xem trọng lắm. Ở đây bàn về chữ "Lễ" và tầm quan trọng của nó trong đời sống hiện tại.


I/ Ý nghĩa của chữ "Lễ":

Chữ "Lễ" tiếng anh gọi là "Rite", phiên âm tiếng Hoa là "li". Chữ "Lễ" là lễ nghi, nghi thức. Theo sách Khổng Tử bản tiếng Anh thì "Lễ" là một bộ luật điều khiển mọi cử chỉ, hành động của một con người. Bộ luật này được xây dựng dựa trên tinh thần, và nó được thi hành bởi sự tự giác. Khi giữ "Lễ", cá nhân người đó không được lợi gì cả và khi không giữ "Lễ", cá nhân đó cũng chẳng bị trừng phạt.

Một người trọng chữ "Lễ" là một người giữ "Lễ" trong mỗi hành động, dù là những hành động nhỏ nhất, ở bất cứ lúc nào và với bất cứ ai hoặc ở nơi vắng vẻ cũng phải giữ "Lễ". Ở book X đoạn 10 có ghi: "Khổng Tử không trò chuyện khi ăn, cũng không nói khi ngủ". Qua đó có thể thấy việc ăn, việc ngủ cũng phải giữ "Lễ". Có lẽ còn một câu tương tự với câu này là "ăn không nói, ngủ không mơ". Có thể nói là ngay khi trong giấc mơ cũng cần phải giữ "Lễ".

Ở book X đoạn 12 cũng có câu: "Khổng Tử không bao giờ ngồi khi chiếu không thẳng". Việc ngồi chỉ là một việc nhỏ nhặt thế mà Khổng Tử cũng phỉ giữ "Lễ". Việc chiếu không thẳng chỉ là một việc nhỏ như hạt bụi mà Khổng Tử cũng để ý tới. Đó không phải là do Khổng Tử nhỏ nhặt, nhưng vì phải làm đúng theo chữ "Lễ". Dù chỉ có một chút thất Lễ cũng không thể bỏ qua được. Câu này không phải ý nói Khổng Tử lười không kéo nổi cái chiếu mà ý rằng ông phải kéo chiếu cho thẳng rồi mới ngồi.

II/ Tầm Quan Trọng của chữ "Lễ":


Muốn giữ "Lễ" thì rất rườm rà, phiền phức. Cũng như những ví dụ trên, việc giữ "Lễ" làm cho con người khó chịu và phải làm nhiều thủ tục rườm rà. Ở book X đoạn thứ 24 nói rằng: " Khi ngủ, Khổng Tử không nằm như một cái xác, cũng không ngồi một cách thoải mái như một vị khách, khi Khổng Tử chỉ có một mình trong phòng". Đến khi ngủ cũng không thể nằm một cách thoải mái mà cũng phải giữ "Lễ" thì thật khó chịu.

Ấy thế nhưng những việc đó lại có một dụng ý rất thâm sâu đằng sau nó. Trước khi nói về ý nghĩa của việc giữ "Lễ", em xin trích câu trăn trối của Lưu Bị với con trước khi chết rằng: " Đừng thấy điều hại nhỏ mà làm, đừng thấy điều tốt nhỏ mà bỏ qua". Lưu Bị tuy là người bán chiếu, không được học hành, nhưng câu nói cuối cùng của Lưu Bị đã giải thích được tầm quan trọng của chữ "Lễ" trong đạo Khổng. "Lễ" là một bộ luật tinh thần của một cá nhân. Con người nếu không tuân thủ theo những điều nhỏ nhặt hằng ngày thì làm sao có thể tuân thủ theo luật pháp của một nước được?

Chữ "Lễ" bản thân nó là một cái khuôn để uống nắn một con người sống có chừng mực, không bị ngã theo những đòi hỏi của cơ thể. Ví như việc ngồi xuống, người ta ngồi khi con người mệt mỏi. Nhưng nếu có một sai xót nhỏ như chiếu không ngay mà người đó bỏ qua chứng tỏ người đó bị ảnh hưởng bởi thể xác quá nhiều. Mà khi làm việc theo sự đòi hỏi của thể xác thì sẽ gây ra những hậu quả nghiêm trọng.

Việc giữ "Lễ" ngay từ nhỏ là để tập cho con người tính đấu tranh chống lại chính sự đòi hỏi của bản thân mình. Ví như việc học, tư thế ngồi học là phải ngồi thẳng lưng, mắt nhìn thẳng lên bảng. Nhưng ngồi thẳng lưng với một thời gian lâu sẽ làm lưng mỏi, con người uể oải. Đối với những học sinh vượt qua được sự mệt mỏi thể xác đó thì sẽ tiếp thu bài tốt hơn. Đó là việc giữ "Lễ".

III/ Xã hội Việt Nam và chữ "Lễ":

Có thể nói rằng đối với xã hội Việt Nam thì chữ "Lễ" bị thoái hóa trầm trọng. Con người chỉ xem trọng chữ "Tiện", có nghĩa làm sao cho dễ dàng thì làm. Đầu tiên phải nói tới việc "tưới cây" của mấy bác nhà ta. Vì không thể nhịn nổi nhu cầu của thể xác mà mấy bác nhà ta chơi đại vào cỏ, tưới cả vào vách, cột điện cũng không tha. Ban đầu thì có thể là vì bí quá, không chịu nỏi. Nhưng làm vài lần về sau thành thói, hể thấy hơi mắc là nhào vào làm ngay.

Tuy nhiên, đó là việc trong dân chúng, còn trong cơ quan nhà nước thì việc thếu "Lễ" lại càng quan trọng hơn. Đã có lần xem trên báo Tuổi Trẻ về việc "công an cởi trần, mặc quần sọt tiếp dân". Đó là một hành động thiếu "Lễ". Hành động này đến từ sự oi bức ở Việt Nam và thân xác của mấy đồng chí công an không chịu được sự oi bức nên đã cởi tuốt tuồn tuột còn có cái quân xà lỏn mà tiếp dân. Việc này nói lên rằng các đồng chí công an đã không vượt qua được sự đòi hỏi của xác thịt, xem trong sự thoải mái hơn chữ "Lễ".

Việc đầu hàng trước những đòi hỏi của cơ thể nếu để phát triển thành thói quen thì rất là nguy hiểm. Cơ thể con người có những đòi hỏi vặt vảnh như nóng nực thì phải cởi áo, mắc thì phải xả ra còn có những đòi hỏi khác như ăn uống, vui chơi, và vấn đề sinh lý. Nếu như cứ quen chìu theo những đòi hỏi của cơ thể thì con người sẽ dễ đi vào con đường xai trái. Ví như khi con người muốn ăn mà không có nhu cầu đáp ứng, người đó sẽ phải tìm thức ăn bằng mọi cách để thỏa mãn cơn đói như ăn cắp, ăn giựt.

Đó là nói đến tầng lớp nghèo khổ, còn tầng lớp giàu có thì sao? sở thích của con người không bao giờ ngừng. Khi người ta có tiền, tức là thỏa mãn được những nhu cầu căn bản là ăn, uống, ở thì nhu cầu tiếp theo là vui chơi. Giả sử như một người có tiền bạc mà lại muốn một món đồ mắc hơn số tiền mình đang có thì nếu không kiềm chế được, người đó sẽ thó trộm hoặc tìm cách có được nó. Em nghe đâu có vụ gì mà vợ bác nào đấy qua siêu thị người ta mà mượn tạm cái áo gì gì ấy. Đấy và vì không thể khắc phục sự ham muốn của bản thân mà gây ra lầm lỗi. Căn bản cũng là vì không rèn luyện bằng việc giữ "Lễ".

Hậu quả thậm chí còn nghiêm trọng hơn khi không biết kiềm chế bản thân mình là khi cơ thể đòi hỏi vấn đề sinh lý. Đây là một vấn nạn mà giới trẻ Việt Nam thường mắc phải. Khi cơ thể đòi hỏi vấn đề sinh lý mà người trẻ đó (ngay cả người già) không có ý chỉ đủ mạnh để khắc phục sự đòi hỏi thể xác thì người đó sẽ đi tìm cách giải tỏa. Khi không được đáp ứng nhu cầu thì người đó sẽ gây ra lầm lỗi. Những việc này ở Việt Nam xảy ra hàng ngày. Tuy có những yếu tố khác góp vào, nhưng nguyên do chính là thiếu sự rèn luyện ý chí từ nhỏ qua việc giữ "Lễ".

IV/ Lời kết:

Chữ Lễ là một khái niệm quan trọng để rèn luyện ý chí con người ngay khi còn nhỏ. Chữ Lễ rèn luyện con người từ việc tuân thủ những luật lệ tinh thần để họ dễ dàng tuân thủ luật pháp quốc gia. Giữ Lễ khiến cho ý chí con người mạnh hơn sợ đòi hỏi của thể xác, hạn chế họ làm những việc tội lỗi, gây hại cho kẻ khác. Chữ Lễ cần phải được xem trọng như một cái khuôn đầu tiên đúc ra giá trị của một con người. Tuy nhiên, muốn đến được chữ Lễ phải trải qua rất nhiều gian khổ trên mặt tinh thần.


Cộng hòa và dân chủ

Thưa tiến sĩ Adler, 

Người ta có hình thức chính quyền dân chủ hay cộng hòa. Chính xác thì sự khác biệt giữa hai hình thức này là gì? 

N.C.

N.C. thân mến, 

Đầu tiên chúng ta hãy làm rõ điều chúng ta muốn nói khi bàn về hình thức dân chủ và cộng hòa của chính quyền. 

Một nền cộng hòa đơn giản là kiểu chính quyền hiến định trong đó những người nắm quyền là do các công dân chọn lựa. Một chính quyền hiến định là một chính quyền mà trong đó tổ chức căn bản và các bộ phận của nó được luật pháp xác lập. Đó là một chính quyền của luật pháp hơn là một chính quyền của những con người cụ thể nào đó. Kiểu "Ta là quốc gia" của Louis XIV(1) hay "Ta là luật pháp" của Adolf Hitler(2) là cách diễn đạt tiêu biểu cho các chính quyền không do hiến định. 

Các nền cộng hòa cũng khác biệt nhau. Đã có những nền cộng hòa do những người giàu có hoặc dòng dõi thượng lưu cai trị. Những nền cộng hòa đó được gọi là chế độ quý tộc hoặc chế độ quả đầu (chế độ mà thiểu số nắm quyền lực). Chúng tồn tại ở Hy Lạp cổ, ở Ý thời Phục hưng và ở Anh thế kỷ 18. Đó là những hình thức chính quyền hiến định trong đó những người cầm quyền là do các công dân chọn ra, nhưng những công dân đó chỉ là một thiểu số ưu tú dựa trên tiêu chuẩn dòng dõi hoặc tài sản

Dân chủ cũng là hình thức chính quyền hiến định hoặc cộng hòa như vậy nhưng những người nắm quyền là do một số đông, thay vì một thiểu số, chọn ra. Bây giờ, từ "số đông" lại có nhiều ý nghĩa thay đổi qua các thời kỳ. Đã có một thời cách đây không lâu tại Mỹ khi phụ nữ không được quyền bầu cử. Cuộc đấu tranh của người da đen để giành quyền bầu cử vẫn còn diễn ra ở một số tiểu bang miền Nam. Ở Hy Lạp cổ, nơi phát nguyên thuật ngữ "nền dân chủ", các nô lệ và người nước ngoài không được quyền bầu cử. Ở Athens thời Pericles, đỉnh cao của nền dân chủ Hy Lạp, trong dân số 120.000 người thì có chưa tới 30.000 người được coi là công dân

Ngay trong mô hình cộng hòa, nước Mỹ trong thời kỳ đầu cũng giới hạn quyền bầu cử cho riêng những người tự do thôi (tức là người da trắng), và ở nhiều bang người ta phải đạt những điều kiện về tài sản thì mới có quyền bầu cử. Nhưng nguyên tắc về nền cai trị bởi "một bộ phận lớn dân chúng" đã có mặt ngay từ buổi đầu ấy; thực tình, tôi đã lấy nhóm từ này trong The Federalist ("Hồ sơ Liên bang"). Alexander Hamilton và những người khác bảo vệ Hiến pháp Mỹ đã chọn "chính quyền nhân dân" hơn là chế độ quân chủ, quí tộc hay quả đầu. 

Một sự lẫn lộn nào đó đã nảy sinh từ sự kiện rằng Hamilton cùng những nhà lập quốc khác của Mỹ đã nói rằng họ ủng hộ một nền cộng hòa hơn một nền dân chủ. Nhưng khi nói đến nền cộng hòa, họ muốn nói đến một nền dân chủ đại diện, trong đó dân chúng trao quyền lập pháp và hành pháp cho những người mà họ bầu chọn. Họ muốn cơ chế này hơn là kiểu công dân trực tiếp hành động cùng cai trị như trong những nền dân chủ ở Hy Lạp cổ. Ngày nay, sự phân biệt này cũng cổ lỗ rồi, vì các nền dân chủ hiến định hầu như luôn vận hành thông qua các đại biểu của dân chúng. Nền dân chủ đại diện, như có ở Mỹ hiện nay, là một chính quyền cộng hòa. 

Quyền bầu cử ngày nay đã được bảo đảm cho mọi công dân thành niên có thần kinh lành mạnh. Địa vị công dân được dành cho bất kỳ ai ra đời tại Mỹ hoặc đã nhập tịch đúng thủ tục. Phổ thông đầu phiếu là điều khác biệt căn bản giữa nền dân chủ Mỹ với nền dân chủ ở Hy Lạp cổ hoặc nước Mỹ buổi đầu lập quốc. Một khác biệt nữa giữa nền dân chủ Hy Lạp cổ và nền dân chủ Mỹ là ở chỗ người Mỹ trao các quyền chính trị cho những người nắm quyền thay vì trực tiếp cai trị thông qua những đại hội đồng nhân dân. 

Theo tôi thấy, điều cốt tủy của nền dân chủ là phổ thông đầu phiếu mà không bị những hạn chế độc đoán dựa trên dòng dõi, tài sản hay tín ngưỡng. Đây là nguồn cội của điều tôi gọi là "tự do chính trị". Tôi nghĩ điều này quan trọng đến nỗi tôi dành cả một phần trong tập thứ nhất của bộ The Idea of Freedom ("Ý niệm Tự do") để bàn về nó. 

Trong bộ sách đó, tôi định nghĩa tự do chính trị là một quyền tự do mà chính quyền hiến định dành cho người dân, và quyền đó chỉ nằm trong tay những người đã hoàn toàn trưởng thành và là thành viên tích cực của một cộng đồng biết tự trị. Quyền tự do đó nằm trong quyền bầu cử. Điều cốt yếu đối với tự do chính trị là ở chỗ ý chí của cá nhân công dân thực sự quyết định ý chí của chính quyền. Đó là điều mà các chế độ chuyên chế, độc tài, hoặc dân chủ giả hiệu đều không đạt được. 


_______________________ 

(1) Louis XIV (Louis Le Grand Monarque) (1638 – 1715): vua nước Pháp từ 1643 đến 1715. (2) Aldolf Hitler (1889 – 1945): nhà độc tài phát xít Đức.

Triết học và lịch sử

GS Hồ Ngọc Đại

09.05.2009 

(Bài giảng của giáo sư Hồ Ngọc Đại tại trường viết văn Nguyễn Du. Giáo sư đầu bạc trắng, áo trắng, quần trắng, giọng nói sang sảng, giọng điệu hài hước và thẳng thừng). 

5 điều cơ bản của buổi học: 

1. Sự tương quan giữa triết học và lịch sử.
2. Sự tồi tệ của nghị quyết và chính sách.
3. Sự cần thiết của mở rộng/ phá bỏ tư duy cũ.
4. Phát hiện lớn nhất của con người là Công Nghệ Sinh Đẻ.
5. Ta tạo ra chính mình.


Tôi xin nói ngay là, tôi nói điều tôi nói, còn tiếp nhận hay không là việc của các anh các chị. 

Thơ dù đề là "Vô đề/ Không đề" thì vẫn cứ là có đề. Vậy hôm nay bài giảng của tôi có đầu đề là "Triết học và lịch sử". 

Có hai vấn đề tôi cho là cơ bản nhất trong các vấn đề cơ bản: triết học và lịch sử. Xin nhớ cho rằng, chúng ta không mày mò điều mà nhân loại đã đi qua. Ta sinh ra thế giới đã có sẵn, anh buộc phải chấp nhận những điều có sẵn đó. Và ta phải chịu quá nhiều sức ép. Dưới những sức ép không gì cưỡng lại đó, ta cứ ngỡ là mình được tự do. 

Anh ngồi yên ở đây, anh phải chịu sức ép của không khí, phải chịu lực hút của Trái Đất. Ta thấy điều đó là tự nhiên, ai cũng phải chịu những sức ép ấy, vậy là chẳng ai phải chịu sức ép cả. 

Quay lại với triết học và lịch sử. Tính triết học được hiểu là cái lý cuối cùng của cuộc đời (không thấy được bằng mắt); còn lịch sử được hiểu là cái có thật, cái đã/đang/sẽ có thật, hoàn toàn trần trụi. 

Mấy ngàn năm nay, nhân loại bao giờ cũng đứng trước hai vấn đề: triết học (tinh thần) và lịch sử (vật chất). Nhà văn như các bạn là phải hiểu vật chất một cách rất tinh thần. 

Tôi chẳng hiểu tại sao lại có thứ câu hỏi ngu xuẩn đến thế, không hiểu sao có loại nhà trường ngu như thế! Đấy là cứ đặt ra hai câu hỏi cho học sinh: vật chất có trước hay tinh thần có trước? Cái nào quyết định cái nào? Điên à! Như mấy anh nào cứ hỏi con gà có trước hay quả trứng có trước ấy, hỏi để làm gì? 

Lịch sử và triết học tương đương nhau. Hegel nói: "Lịch sử và triết học là hai hình thái tương đương nhau". Anh chị chú ý chữ "hình thái", hay là "hình thức" ở đây. Hôm nay tôi mặc áo màu trắng, ngày mai tôi mặc áo đỏ, hoặc có lúc nào có chị gặp tôi không mặc áo gì cả, vẫn nhận ra tôi. Bởi đó chỉ là hình thức thôi. 

Triết học và lịch sử có sự chuyển hóa lẫn nhau. Ngày xưa vợ chồng gọi nhau là "mình" là triết học nhất. Mình mà lại không phải là mình. Bây giờ không còn gọi nhau như thế là bởi nhiều mình quá. Và phải hiểu rằng khi gọi "thằng chồng" là đã ám chỉ có "con vợ" ở trong rồi. 

Tư duy quá rạch ròi tạo ra trình độ thấp. Cái nhìn thấy chứa cái không nhìn thấy. 

(Giáo sư giơ cánh tay lên) Tôi đố các anh các chị đây là cái gì? (Hội trường: cánh tay). Cánh tay à? À, tôi nghe thấy có chị nào bên dưới bảo đây là cái gối. Đúng đấy, với riêng chị có thể đây là cái gối. Với người khác có thể là gọng kìm, là quả đấm. 

Hiểu rõ hai vấn đề, nhìn thấy hai mặt của một sự việc, các anh chị sẽ viết văn thoải mái hơn. Trên đời không có cái gì tồn tại đơn độc hết. Trong đời, cư xử cũng chính là một dạng triết học. Như tôi, giảng bài cho các anh các chị thì là Giáo sư, nói những gì, quay ngang quay dọc ra sao, nhìn ngó thế nào. Tôi về nhà, vợ gọi: "Đại đâu?" là phải "Dạ!" ngay (GS khoanh tay cúi đầu), không thì chết với nó. 

Tiếp theo, tôi xin nói về "Siêu hình, biện chứng". Hegel nói, "Toàn bộ triết học thâu tóm vào phương pháp". Có hai phương pháp cơ bản: siêu hình và biện chứng. 

Siêu hình. 

Hegel được coi như "ông trùm của duy tâm". Ông nói: "Các nhà triết học phê bình tôi, họ tưởng tôi cũng ngu như bọn duy vật". 

VD: các cô trong đây giữ cho mình một cái ảnh trẻ nhất, đẹp nhất, mỗi khi ai hỏi thì đem ra khoe, hoặc yêu mến ai đem ra tặng. Các cô ngày thường có thể đanh đá, chua ngoa cau có, nhưng bức ảnh chụp lại một tích tắc đẹp và chặn đứng sự vận động của nó (siêu hình). Cái ảnh đó là sự thật, không hề bịa, nhưng lại sai (ngày thường con bé đành hanh, sao trong ảnh lại hiền dịu thế). 


Biện chứng. 

Tức là để sự vật vận động và nghiên cứu nó trong lịch sử. Như thế thật mà không thật. Xem phim là một điển hình về biện chứng giả (thực chất là những siêu hình kế tiếp). 

Mấy nghị quyết của Nhà nước giả là vì thế: cuộc sống vận động, nhưng nghị quyết thì đứng. Ngu thế chứ! Điển hình của sự sống là luôn luôn vận động. Hãy xem những nghị quyết như những cuốn tiểu thuyết. Hai đứa đấy lúc đầu gặp nhau thì chúng nó vui, chắc gì cả đời còn lại chúng nó vui? 

Mà tư duy kiểu Việt Nam: không sai là đúng, không đúng là sai, có chết không


Trong văn chương, anh không bao giờ là anh thì anh mới là anh. Anh luôn luôn là anh thì anh chết. Sự ổn định chỉ là ước lệ. 

Như vậy, hãy tin vào Triết học, nhưng cũng không nên tin vào Triết học. 

Không phải đi đâu xa, cuộc sống chính là lịch sử. Ta sinh ra từ đó và ta sống chết với nó. Cho nên các bà già nông thôn triết học lắm. Triết học cao thì nhìn cuộc sống rõ. Cuộc sống đích thực thì triết học mới cao được. 

Ở thế hệ của chúng ta, cuộc sống vận động rất nhanh. Mác nói: "Rồi có lúc một ngày bằng 20 năm", chính là lúc này đây. 

Mác nói: "Lịch sử là tự nhiên". Khái niệm "lịch sử" ở đây chính là cuộc sống thực, là thực tiễn, là hiện thực, là hiện thực khách quan, như các anh chị thường dùng. Hồi đó Mác tí tuổi đầu, chưa tới 30, mà một ông GS 70 tuổi vẫn phải trích dẫn (ý GS tự nói mình) thì các anh chị biết là Mác giỏi thế nào. 

Triết lý cuộc sống hết sức đơn giản: muốn gì thì gì, cứ phải sống đã. Ăngghen nói: "Sống là sự trao đổi chất". "Trao đổi" tức là phải có hai bên, có chất trao đổi, có sự vận động về thời gian và không gian. "Lịch sử là tự nhiên". Thế tức là cái gì tự nhiên nhất thì vĩ đại nhất. 

Cứ nống lên là vĩ đại à? Việt Nam buồn cười. Thi đua khác nào kiễng chân lên, có tăng được chiều cao đâu. Nước ta thế, khẩu hiệu càng nhiều, đất nước càng khốn nạn. 

Năm 69,70 gì đó, tôi sang Liên Xô học. Những người bạn Liên Xô nói với nhau: "Các bạn ơi, chúng ta nên thương anh Đại. Cái mà chúng ta sắp đổ rồi thì anh Đại sang học". 

Họ khuyên tôi nên đọc Platon, Kant, Hegel, Marx- chỉ cần đọc 4 ông ấy thôi, và chú thích cách đọc: thứ nhất, lúc nào chán không còn việc gì làm nữa thì hẵng đọc; thứ hai, đừng đọc theo hệ thống, hãy đọc lung tung bạ đâu đọc đấy

Tôi không hiểu nổi những lời khuyên của họ. Nhưng chính cách đọc ấy làm tôi mở rộng tư duy, không theo khuôn thước nữa. 

Các giáo trình triết học bây giờ buồn cười, bảo sai thì không sai, nhưng mà học chẳng để làm gì. 

Có mấy người mời tôi đến dạy, sợ không đủ thù lao. Trời ơi, sinh viên là thù lao lớn nhất đối với tôi. Mà chính ra họ sợ tôi đến làm loạn sinh viên. Sinh viên là bọn dễ nổi loạn nhất. 

Trong trường học, các anh chị toàn dạy Dao, Kéo cả, chẳng thấy Mác đâu hết. 

Mác nói: từ trước đến giờ, các cuộc cách mạng đều là của số ít, không thấy cuộc cách mạng nào là của số đông. Ông hi vọng ở cuộc cách mạng tư sản Pháp, nhưng về sau ông thất vọng. 

Các anh chị xem này, lúc đầu có hai loại người là "chủ nô và nô lệ". Hai loại này bị thay thế bởi "địa chủ và nông dân". Hai loại này lại bị thay thế bởi "tư sản và vô sản". Thế bây giờ muốn tư sản chết mà mỗi vô sản sống thôi à? Vô lý! Thằng đấy chết phải có thằng khác thay vào, hoặc là phải có hai thằng mới. 

Có phải về mặt triết học, "nông dân" là phản động, bởi họ đại diện cho phương thức sản xuất cũ nên phải hủy bỏ không?
 

Ông.... hỏi tôi có gì trách Đảng không. Tôi bảo, tôi giận chứ tôi không trách, mà tôi quý tôi mới giận. Thứ nhất, ngàn đời nay Việt Nam toàn nông dân, nhưng chính sách với nông dân tệ quá. Các vị cũng từ nông dân mà ra chứ đâu. Thứ hai là chính sách với trí thức. Bọn này cực kỳ yêu nước, chỉ phải tội chúng nó hay chửi lung tung, thì Đảng hay cà khịa với chúng nó. 

Lúc đầu trên đời không có gì hết, chỉ là một thế giới vô cơ. Sau đó xuất hiện sự sống hữu cơ, rồi có thực vật và động vật. Lịch sử luôn sáng tạo ra cái mới. Đến khi con người ra đời thì toàn bộ cơ sở tự nhiên đã có rồi. 

Về mặt lịch sử, ta có cơ thể người. Về mặt triết học, ta có "phạm trù người". 

Người là sản phẩm sau cùng của lịch sử tự nhiên. Việc mà toàn bộ lịch sử tự nhiên làm suốt tỉ tỉ năm qua thâu tóm vào trong CÔNG NGHỆ SINH ĐẺ. Đó là tinh túy của lịch sử. 

Ta biết rằng ông Trời làm khoán, rất chắc chắn, an toàn tuyệt đối: con bò sẽ đẻ ra con bò, con vịt lại đẻ ra con vịt,... Và muôn loài cho gì hưởng nấy. 

Riêng con người tự sinh ra mình, qua lao động. Loài người là loài ương bướng. 

Con khỉ đầu tiên đi bằng hai chân, thể nào cũng bị đồng loại phê bình, họp kiểm điểm mạnh lắm. Cũng như cái anh đầu tiên nghĩ tới việc đi xe đạp, khác hẳn việc cưỡi ngựa hoặc đi xe ngựa (vẫn là dùng sức bộ), chắc chắn sẽ bị hàng xóm cười: "Thể nào nó chẳng ngã?". 

Nhưng có xe đạp, loài người mới được giải phóng tư duy, rồi mới có ô tô, máy bay, đỡ sức. 

Nói về chữ "RA SỨC". "Ra sức" để làm gì, ngu muội! Tôi đi ô tô, tôi nhẹ nhàng khởi động xe, không việc gì phải dùng sức hết. Thế lẽ ra phải đề cao mấy thằng "không ra sức", đằng này lúc nào cũng hô hào "ra sức", có điên không. 

Con người ta vĩ đại là ở tinh thần, không ở thể xác. Ông Mác cao có 153cm, nếu đi thi hoa hậu thì ông cao vừa đến eo, mà với mãi hai tay lên chưa chắc đã với được đến chỗ cần với. Nhưng ông vẫn vĩ đại. Như vậy là tinh thần quan trọng hơn cơ thể. 

Tôi nói câu này: "Con người là một thực thể tinh thần"- cái này nhiều ông sợ không dám nói. Con người là một thực thể tinh thần, do đó loài người tự sinh ra mình, bất chấp Kinh Thánh. 

Ta quen "Lạy Trời mưa xuống, lấy nước tôi uống, lấy ruộng tôi cày,..." Tư duy hèn hạ. Lại còn "Nước, phân, cần, giống", nghe thì rất vĩ đại khi khái quát nó lên, nhưng đồng thời cũng rất chung chung. Bao nhiêu "nước"? "Phân" lúc nào? 

(Quay lại công nghệ sinh đẻ) Cuối thế kỷ XIX, người ta phát hiện ra cơ chế thụ thai. Trước đó thì có con là việc trời cho. Bây giờ muốn lúc nào có lúc đấy, có hay không đều được. Bây giờ "coi trời bằng vung", dám làm rồi. 

Và có công nghệ sản xuất vật chất thì ắt phải có công nghệ sản xuất tinh thần. 

Người ta hỏi tôi: 30, 40 năm qua, anh làm được gì? Tôi đáp, ngần ấy năm tôi chỉ làm được có ba chữ thôi

(Ba chữ gì?) 

Có ba chữ thôi. 

(Nhưng là ba chữ gì?) 

HỒ NGỌC ĐẠI! 

(cả hội trường ồ lên vỗ tay). 

Tôi xin kết thúc bài giảng ở đây. 

(tôi cũng xin kết thúc bài ghi ở đây). 

Văn bản do nhà văn Châu Diên cung cấp

Tuesday, June 23, 2009

VỀ MỘT SỐ THUẬT NGỮ TRIẾT HỌC, CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI CÓ NGUỒN GỐC TỪ TIẾNG NƯỚC NGOÀI

 

NGUYỄN TẤN HÙNG (*)

Trao đổi về một số thuật ngữ triết học, chính trị - xã hội có nguồn gốc từ tiếng nước ngoài, trong bài viết này, tác giả đã khẳng định cách phiên âm tên địa phương và tên người ra tiếng Việt tuy đã có nhiều đổi mới, nhưng vẫn còn chưa thống nhất; việc phiên dịch các thuật ngữ thì một số thiếu chính xác, một số sai cơ bản, một số khác tuy không sai nhưng cũng cần phải tìm hiểu mới có thể sử dụng đúng được.

Các thuật ngữ triết học, chính trị - xã hội trong tiếng Việt tuyệt đại đa số có nguồn gốc từ tiếng nước ngoài, chủ yếu được dịch trực tiếp từ các thứ tiếng: Hy Lạp (H), Latinh (L), Anh (A), Pháp (P), Đức (Đ), Nga (N), hoặc gián tiếp thông qua tiếng Trung Quốc (TQ). Tuy nhiên, việc dịch các thuật ngữ này nhiều khi không chính xác, cách phiên âm không thống nhất, do đó dẫn đến những hiểu lầm hoặc giải thích không đúng. Mặt khác, đa số cán bộ nghiên cứu và giảng dạy các môn lý luận triết học, chính trị, xã hội của chúng ta, do ít am hiểu ngoại ngữ nên không thấy có vấn đề gì trong việc sử dụng các thuật ngữ chuyên môn của mình và cũng không có thói quen tìm hiểu kỹ nguồn gốc của chúng trước khi sử dụng. Trong bài viết này, chúng tôi sẽ chỉ ra một số trường hợp không thống nhất và bất cập về cách phiên âm, dịch nghĩa các thuật ngữ. 

1. Cách phiên âm tên địa phương và tên người ra tiếng Việt tuy đã có nhiều đổi mới, nhưng vẫn còn chưa thống nhất

Tên các quốc gia, địa phương trên thế giới mà chúng ta hiện đang sử dụng được phiên âm bằng hai cách: 1) đọc theo phiên âm Hán - Việt từ cách phiên âm của người Trung Quốc; và 2) phiên âm trực tiếp từ tiếng nước ngoài. Nhiều thuật ngữ trước đây được phiên âm theo cách thứ nhất nay đã chuyển sang cách thứ hai. Thí dụ: Mã Khắc Tư nay là Các Mác (Karl Marx), Mã Lai - Malayxia(Malaysia), Phi Luật Tân - Philippin (Philippines), Gia Nã Đại - Canađa(Canada:), Mễ Tây Cơ - Mêhicô (Mexico), v.v.. Tuy nhiên, cũng còn nhiều thuật ngữ đã dùng quen nên khó thay đổi, chẳng hạn: nước Anh (thật ra, tên gọi chính thức của quốc gia này là United Kingdom (Vương quốc thống nhất) gồm 4 nước, trong đó có nước Anh (A: England); Luân Đôn (A: London); Đức (Đ: Deutschland); Tây Ban Nha (TBN: Espaủa); Bồ Đào Nha (B: Portuguesa), v.v.. Cách gọi này tuy quen thuộc nhưng lại gây không ít khó khăn cho những người đi học tập, tham quan ở những nơi nói trên.

Có một số tên người có nguồn gốc từ hai cách phiên âm khác nhau. Thí dụ "Bụt" và "Phật" trong tiếng Việt tuy cùng một nghĩa nhưng có hai nguồn gốc phiên âm khác nhau. "Bụt" được phiêm âm trực tiếp từ tiếng Ấn Độ "Buddha"; còn "Phật" cũng từ "Buddha" nhưng được phiên âm sang tiếng Trung Quốc và đọc theo ngữ âm Hán - Việt là "Phật Đà" rồi sau đó được rút gọn thành "Phật". Các từ "Kitô" và "Cơ Đốc" cũng có nguồn gốc tương tự như vậy. "Kitô" được phiên âm trực tiếp từ tiếng Hy Lạp "Χριστός" (đọc là Khristós, tiếng Latinh làChristus, tiếng Pháp, Anh là Christ). Kitô là tước hiệu, không phải là họ, Giêxu (Jesus) mới là tên. "Cơ Đốc" cũng từ nguồn gốc đó, nhưng được phiên âm sang tiếng TQ rồi được đọc theo âm Hán - Việt. Rất tiếc là nhiều người đã nghĩ Cơ Đốc giáo và Kitô giáo là hai tôn giáo khác nhau. Ngoài ra, "Thiên Chúa giáo", "Hồi giáo" là những cách gọi sai của chúng ta. Kitô giáo, Cơ Đốc giáo là tên gọi chung (có thể là Công giáo hay Tin Lành); còn Công giáo, Tin Lành, Chính thống giáo là tên những giáo phái của Kitô giáo, sau đã tách ra thành những tôn giáo độc lập. "Hồi giáo" (tôn giáo của người Hồi) là cách gọi của người Trung Quốc, gọi theo tên một bộ tộc theo tôn giáo này; thật ra, tôn giáo này có tên là Islam.

Cũng do việc phiên âm từ các thứ tiếng khác nhau, nên đã xảy ra trường hợp nhầm lẫn, một tác giả được biên soạn thành hai mục từ khác nhau, với hai tên khác nhau. Chẳng hạn, Tômát Aquin trong "Từ điển Triết học" của Cung Kim Tiến. Để hiểu nguồn gốc của sai lầm này, chúng ta hãy trở lại với cách gọi tên các danh nhân phương Tây. Từ Hy Lạp Cổ đại đến thời Trung cổ, các danh nhân chỉ được gọi trực tiếp bằng tên (không có họ), để tránh sự nhầm lẫn giữa nhiều người có cùng tên, người ta thêm địa danh quê hương, chẳng hạn Talet ở Milê (Thales of Miletus), Hêraclit ở Êphesơ (Heraclitus of Ephesus), Zênôn ở Elê (Zeno of Elea) để phân biệt với Zênôn ở Xiti (Zeno of Citium), Điôgien ở Laect (Diogenes Laertius) để phân biệt với Điôgien ở Xinôp (Diogenes of Sinope). Tômát - nhà triết học kinh viện Kitô giáo Trung cổ, sinh ở Aquino, Italia nên gọi là Tômat Aquin hay Tômat Aquinô; trong tiếng Anh, tên nhà thần học này làThomas Aquinas (hay Thomas of AquinThomas of Aquino). Trong phần lớn các tài liệu tiếng Việt hiện nay, tên của nhà thần học này được phiên âm từ tiếng Pháp: Thomas d'Aquin (cũng có nghĩa là Tômat ở Aquin) đọc là Tôma Đacanh. Trong tiếng Nga, nhà triết học này được phiên âm là ễợỡà Àờõố́ớủờốộ (đọc là Phôma Akvinski, cũng có nghĩa là Tômát ở Aquin), có lẽ vì thế mà Từ điển Triết học Cung Kim Tiến đã nhầm và biên soạn thành hai tác giả (hai mục từ) khác nhau là "Tôma ở Ácvinô" (từ tiếng Nga Фома Акви́нский) và "Tômat Đacanh" (từ tiếng Pháp Thomas d'Aquin)(1)..

2. Về việc phiên dịch các thuật ngữ: một số thiếu chính xác, một số sai cơ bản, một số khác tuy không sai nhưng cũng cần phải tìm hiểu thì mới sử dụng đúng được.

Một số thuật ngữ dịch tuy phản ánh được nội hàm của khái niệm gốc, nhưng không sát với thuật ngữ gốc của nó. Nguyên nhân của tình trạng này là do khi dịch một khái niệm, người ta chỉ cố gắng đảm bảo nội hàm, còn về tên thuật ngữ thì lại đi tìm một tên khác, miễn là diễn đạt được nội hàm đó. Thí dụ:

 Thuyết "Tam quyền phân lập" là một học thuyết chính trị do nhà triết học chính trị Pháp Saclơ Môngtexkiơ (Charles Montesquieu, 1689 - 1755) đưa ra. Trong tiếng Pháp, thuyết này có tên "Séparation des pouvoirs" (A: Separation of powers), nếu dịch sát về thuật ngữ thì phải là "sự chia tách các quyền lựcchứ không phải là "tam quyền phân lập". Tuy từ dịch này không sai so với nội hàm của khái niệm, nhưng người sử dụng cũng cần phải biết xuất xứ của nó.

"Chủ nghĩa thực dụng" (Pragmatism) là một trào lưu triết học đã và đang thịnh hành ở Mỹ. Thuật ngữ "pragmatism" (A) hay "pragmatisme (P) xuất phát từ "pragma" (số nhiều: pragmat) trong tiếng Hy Lạp có nghĩa là "hành động". Từ "pragma" là nguồn gốc của các từ practice (A), pratique (P), практика (N) dịch ra tiếng Việt là "thực hành" hay "thực tiễn". Như vậy, "pragmatism" nếu dịch sát nghĩa phải là "chủ nghĩa hành động", "triết học thực tiễn" chứ không phải là "chủ nghĩa thực dụng" như cách nói hiện nay. Thuật ngữ "chủ nghĩa thực dụng" trong tiếng Việt tuy cách dịch không sai so với thực chất của trào lưu triết học này (lấy công dụng, lợi ích, hiệu quả thực tế làm thước đo cho tất cả), nhưng nó lại được hiểu lệch theo một nghĩa xấu vốn không có trong thuật ngữ gốc của nó. 

- Một số thuật ngữ dịch sai cả về tên và nội hàm của khái niệm.

Không chỉ có thuật ngữ "chủ nghĩa duy tâm", "chủ nghĩa duy vật", mà có nhiều thuật ngữ khác cũng được thêm từ "duy" vốn không có trong tiếng nước ngoài, thí dụ "chủ nghĩa duy thực", "chủ nghĩa duy danh", "chủ nghĩa duy năng", "chủ nghĩa duy linh", "chủ nghĩa duy ý chí",… Chữ "duy" ở đây làm cho người ta hiểu sai là "chỉ có", thí dụ, hiểu nhầm chủ nghĩa duy vật cho rằng "chỉ có vật chất", chủ nghĩa duy tâm cho rằng "chỉ có ý thức"… Thực ra, các trào lưu này không tuyệt đối hóa sự tồn tại của một trong hai nhân tố, mà chỉ nhấn mạnh vai trò quyết định của một trong hai nhân tố đó mà thôi.

Thuật ngữ "chủ nghĩa duy tâm" còn sai cả từ và nghĩa nữa. Các từ idealism(A), idéalisme (P), idealismus (Đ) xuất phát từ tiếng Hy Lạp "ιδεαđược dịch sang tiếng Anh là "idea", "form";  tiếng Việt là "ý niệm". Platôn - nhà triết học duy tâm khách quan cho rằng "ý niệm" là một thực thể tinh thần có trước, độc lập với sự vật cảm tính. Hêghen cũng kế thừa tư tưởng đó. Còn những nhà duy tâm chủ quan, như Đêvit Hium (David Hume, 1711 - 1776), thì lại cho rằng sự vật chỉ là "tập hợp các cảm giác" hay "tập hợp các ý niệm" (collection of ideas) của con người. Đáng lẽ "idealism" phải được dịch là "chủ nghĩa ý niệm". Thuật ngữ Hán - Việt, "tâm" tuy cũng có nghĩa là ý thức, tư duy, nhưng chỉ nói về tư duy của con người mà thôi (chỉ có thể áp dụng cho chủ nghĩa duy tâm chủ quan); trái lại, thuật ngữ "ý niệm" (idea) trong từ "idealism" theo quan niệm của các nhà triết học duy tâm khách quan thì lại tồn tại độc lập, ngoài con người.

"Chủ nghĩa kinh nghiệm" (empiricism) là khuynh hướng triết học thịnh hành ở nước Anh với Francis Bacon, John Locke, George Berkeley, David Hume trong thế kỷ XVII đến các nhà triết học thuộc chủ nghĩa thực chứng trong các thế kỷ XIX và XX. Thuật ngữ này tuy rất quen thuộc, song thế nào là "kinh nghiệm" thì ít người hiểu đúng, vì từ "kinh nghiệm" trong tiếng Việt và tiếng nước ngoài (εμπειρισμός (H) experientia (L), experience (A, P) không đồng nghĩa với nhau. "Kinh nghiệm" trong tiếng Việt thường được hiểu là những tri thức thu được trong hoạt động thực tiễn. Do đó, chủ nghĩa kinh nghiệm được người Việt hiểu như là khuynh hướng tư tưởng coi kinh nghiệm thực tiễn là tất cả, coi thường lý luận. Tuy nhiên, trong triết học phương Tây, "εμπειρισμός","experience" trước hết được hiểu là tất cả những tri thức cảm tính, tức tất cả những gì do quan sát được bằng giác quan đem lại. Như vậy, "chủ nghĩa kinh nghiệm" ở phương Tây là trào lưu triết học chỉ thừa nhận những tri thức có nguồn gốc từ cảm tính hoặc có liên hệ trực tiếp với cảm tính; nó phủ nhận những tri thức do suy lý gián tiếp, phản đối phương pháp tư duy tư biện. Chủ nghĩa kinh nghiệm có thể là duy vật hoặc duy tâm. Đối với các nhà triết học duy tâm chủ quan, các nhà triết học thực chứng và thực dụng thì kinh nghiệm là tất cảkhông phân biệt khách quan, chủ quan. Theo họ, vũ trụ, mặt trời, mặt trăng… đều nằm trong kinh nghiệm.

"Chủ nghĩa duy lý" (rationalism có gốc từ tiếng Latinh ratio - lý trí, lý tính,reason (A), raison (P)) là trào lưu triết học đối lập với chủ nghĩa kinh nghiệm. Chủ nghĩa duy lý là khuynh hướng triết học coi lý trí là cơ sở của tồn tại, nguồn gốc và tiêu chuẩn kiểm tra chủ yếu của tri thức; đồng thời cho rằng, bằng lý trí và phương pháp suy luận diễn dịch, con người có thể nhận thức được tất cả, không cần đến kinh nghiệm. Đối lập với trào lưu chủ nghĩa duy lý còn có trào lưu "chủ nghĩa phi lý" (phi lý tính hay phi duy lý - irrationalism) phủ nhận vai trò của lý trí, lý tính. Chủ nghĩa hiện sinh là một điển hình. Nó cho rằng tất cả đều là phi lý. Cái phi lý là cái không có bản chất, quy luật, nguyên nhân, quan hệ… và do vậy, không thể dùng lý trí để nhận thức, mà chỉ có thể cảm nhận bằng cảm giác, cảm xúc mà thôi. Đừng nhầm lẫn "phi lý" (absurd) với "vô lý" (illogical). Cái vô lý là cái không hợp lôgíc, nghĩa là có thể nhận thức được bằng lý trí, nên mới biết được nó không hợp với lôgíc khách quan. Còn cái phi lý là cái không thể nhận thức được bằng lý trí, nên không thể nói gì về nó cả. Theo nhà triết học hiện sinh Pháp - Albert Camus, hạnh phúc, ý nghĩa cuộc sống… là những cái phi lý, chúng ta chỉ có thể cảm nhận chúng mà không thể giải thích được chúng.

"Chủ nghĩa thực chứng" là gì? Nó là trào lưu triết học thịnh hành ở các nước, như Anh, Mỹ trong thời kỳ sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai. Thuật ngữ "chủ nghĩa thực chứng" (Positivsm, Positivisme trong tiếng Anh, Pháp) xuất phát từ positivus (L) (positive, positif trong tiếng A,P) có nghĩa là xác thực, rõ ràngPositive - negative là một cặp từ được dùng ở nhiều nghĩa khác nhau, chẳng hạn như dương - âm (cực dương hay cực âm của một nguồn điện). Cặp từ này cũng có nghĩa là khẳng định (nói có) - phủ định (nói không) trong các phán đoán. Thí dụ, trong kết quả xét nghiệm một loại vi rút nếu được ghi là negative (dịch làâm tính) có nghĩa là không có virút đó. Cặp từ này còn có nghĩa là  tích cực -tiêu cực. Riêng từ "positive" trong khoa học, triết học, thí dụ "positive knowledge", "positive thinking", có nghĩa là xác thực, rõ ràng. Positivism được dịch là "chủ nghĩa thực chứng" vì đây là một trào lưu triết học không thừa nhận lối tư duy tư biện và những tư tưởng tư biện; nó chỉ thừa nhận những tri thức thực chứng, tức là những tri thức xác thực, đã được chứng thực. Tuy nhiên, hạn chế của trào lưu này là chỉ giới hạn việc chứng thực các mệnh đề lý luận bằng kinh nghiệm cảm tính (quan sát, thực nghiệm).

"Chủ nghĩa hiện sinh" là gì? Thuật ngữ này rất quen thuộc nhưng ít người hiểu đúng thực chất của nó, ngay cả những người nghiên cứu và giảng dạy triết học, vì thuật ngữ này trong tiếng Việt không đồng nhất với thuật ngữ gốc. "Hiện sinh" trong tiếng Việt có nghĩa là "đang sống", nhưng thuật ngữ gốc của nó không có nghĩa như vậy. Thuật ngữ "chủ nghĩa hiện sinh" (Existentialism (A), Existentialisme (P) xuất phát từ gốc từ Latinh "existentia", nghĩa thông thường là "tồn tại". Đây là trào lưu triết học phi lý tính, phát triển mạnh ở Đức và Pháp từ những năm 20 của thế kỷ XX. Thật ra, trong ngôn ngữ thường ngày, being vàexistence (A) hay être và existence (P) đều có chung một nghĩa là "tồn tại", chẳng hạn, "being and thinking" (tồn tại và tư duy) "the existence of God" (sự tồn tại của Thượng đế). Tuy nhiên, các nhà triết học hiện sinh lại phân biệt hai khái niệm này. Theo họ, être (P); being (A); Sein (Đ) (dịch ra tiếng Việt là "tồn tại") chỉ đơn giản là "có mặt ở đó", nhưng không có ý thức nên vô nghĩa, không đáng quan tâm. Chỉ có existence (A&P); Dasein (Đ) (được dịch ra tiếng Việt là "hiện sinh" hay "hiện hữu") là một thứ tồn tại đặc biệt - tồn tại có ý thức, mới là cái đáng quan tâm. Tuy nhiên, ý thức mà họ nói ở đây không phải là lý trí hay ý thức khoa học, mà là một thứ xúc cảm chủ quan (sự lo âu, trăn trở, đau khổ, tự do, nổi loạn…) ở cá nhân riêng lẻ của con người "hiện sinh" và cảm nhận chủ quan mà con người hiện sinh gán cho đồ vật mà thôi. Nhà hiện sinh Pháp - Jean Paul Sartre (1905 - 1980) đưa ra luận điểm nổi tiếng "L'existence précède l'essence" ("hiện sinh có trước bản chất", nhưng nhiều tài liệu nhầm là "tồn tại có trước bản chất") nghĩa là con người sinh ra không có một bản chất vốn có nào cả; chỉ khi nào con người "hiện sinh", tức là có ý thức về bản thân mình, tự do lựa chọn cho mình trở thành một cái gì thì anh ta mới có được một bản chất nào đó. Đồ vật chỉ đơn giản là tồn tại, nó chỉ "hiện sinh" khi con người hiện sinh đem lại cho nó một ý nghĩa nào đó. Nhà hiện sinh Pháp - Simone de Beauvoir (1908 - 1986) có câu nói nổi tiếng "On ne naợt pas femme, on le devient" (Người ta không sinh ra là phụ nữ, mà trở thành phụ nữ) cũng được hiểu theo cách tương tự như vậy. Như vậy, chủ nghĩa hiện sinh là trào lưu triết học chỉ quan tâm đến sự "hiện sinh", một thứ tồn tại đặc biệt, chứ không phải là tồn tại nói chung.

Thuật ngữ "chủ nghĩa cộng sản" được dịch từ các thứ tiếng phương Tây  (communism (A), communisme (P), Kommunismus (Đ), коммунизм (N). Các thuật ngữ này không hề có từ "sản" mà chỉ gần gũi với từ "chung" (common), "cộng đồng" (community). Không phải ngẫu nhiên mà một tác giả đã giải thích: "communism = common + ism". Việc dịch thuật ngữ này thành "chủ nghĩa cộng sản" là sai cả về ngữ nghĩa và thực chất của khái niệm. Communism nếu dịch chính xác phải là "chủ nghĩa cộng đồng", chứ không thể là "chủ nghĩa cộng sản" được. Từ "chủ nghĩa cộng sản" tạo ra một ấn tượng sai lầm rằng xã hội tương lai mà chúng ta phấn đấu xây dựng phải là một xã hội mà mọi tài sản đều là của chung. Mặc dù, sau này, người ta đã cải chính rằng không phải mọi tài sản mà chỉ có tư liệu sản xuất là của chung, nhưng như vậy cũng không phản ánh được thực chất của chủ nghĩa cộng sản. Khái niệm "communism" phản ánh mục đích phấn đấu là cộng đồng xã hội, ưu tiên của cộng đồng xã hội so với cá nhân; còn tư liệu sản xuất chung chỉ là con đường để thực hiện mục đích, chứ không phải là mục đích.

Các thuật ngữ "conservatism", "conservative party" được dịch sang tiếng Việt là "chủ nghĩa bảo thủ", "đảng bảo thủ". Các thuật ngữ này xuất phát từ động từ "conserve" (A) hay conserver (P) có nghĩa là giữ gìn, bảo tồn, bảo toàn. Cách dịch này sang tiếng Việt tuy không sai ("bảo thủ" có nghĩa là là bảo vệ, giữ gìn"), nhưng vì trong tiếng Việt, từ "bảo thủ" thường được dùng với một nghĩa xấu, do đó người ta thường hiểu sai khuynh hướng chính trị này. Thực ra, đây là một khuynh hướng triết học chính trị chủ trương giữ gìn, bảo tồn những giá trị, những thể chế (chính trị, văn hóa, đạo đức, tôn giáo, v.v.) đã qua thử thách trong lịch sử. Khi sử dụng thuật ngữ "chủ nghĩa bảo thủ", vì không hiểu nguồn gốc của nó, nên nhiều người thắc mắc tại sao trong nhiều nước tiên tiến, đảng "bảo thủ" lại có thể được quần chúng ủng hộ, như Đảng Bảo thủ Anh đã nhiều lần nắm được ghế thủ tướng; Đảng Bảo thủ Canađa hiện nay đang nắm chính quyền ở nước này từ năm 2006 đến nay.

Không chỉ các thuật ngữ được dịch từ các tiếng phương Tây, mà ngay cả một số thuật ngữ có nguồn gốc từ tiếng Nga, tiếng Trung Quốc cũng không phải đã được hiểu đúng.

Tác phẩm của V.I.Lênin "Империализм, как высшая стадия капитализма"được dịch ra tiếng Việt là: "Chủ nghĩa đế quốc - giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản". Đúng ra phải dịch là: "Chủ nghĩa đế quốc - giai đoạn cao nhất của chủ nghĩa tư bản". Cần lưu ý, hai thuật ngữ "tột cùng" và "cao nhất" không hoàn toàn trùng khớp với nhau về ngữ nghĩa. "Tột cùng" còn có nghĩa là cuối cùng; còn "cao nhất" chưa hẳn là cuối cùng (vì còn có quá trình đi xuống, suy vong nữa rồi mới chấm dứt). Thuật ngữ "умирающий капитализмđược dịch ra tiếng Việt là "chủ nghĩa tư bản giẫy chết" cũng không hoàn toàn sát nghĩa.Умирающий (động tính từ của động từ умирать) có nghĩa là đang chết. "Đang chết" diễn đạt một quá trình lâu dài, chết dần dần; còn "giẫy chết" cho ta ý niệm về một cái chết diễn ra rất nhanh chóng.

Câu nói của Khổng Tử: "Tính tương cận, tập tương viễn" thường được giải thích là: Tính người vốn sinh ra là gần nhau nhưng do nhiễm những thói quen, tập quán xấu ngoài xã hội, nên vì thế mà tính người trở nên xa nhau. Ta thử đối chiếu với cách dịch câu nói này trong một giáo trình triết học ở Mỹ: "By nature, men are nearly alike; by practice, they get to be wide apart" (Về bản tính, con người gần giống nhau; bằng sự rèn luyện mà họ trở nên xa nhau)(2). Tính người (human nature) phải được hiểu là bản tính tự nhiên của con người, chứ không phải là ý thức hay nhân cách, vì khi mới sinh ra, con người chưa có được những yếu tố này. "Nature" là tự nhiên khác với "culture" (văn hóa, giáo dục). Bản tính tự nhiên của con người xuất phát từ bản năng động vật, tức yếu tố "con" ở trong con người (bản năng ăn uống, tự vệ, sinh dục …) đòi hỏi phải được thỏa mãn cho cá nhân một cách tối đa, bất chấp lợi ích của người khác (từ đó sinh ra tính tham lam, ích kỷ, lánh nặng tìm nhẹ, v.v.). Tuy nhiên, nhờ lớn lên và rèn luyện trong môi trường văn hóa mà con người kìm chế được những bản năng này và phát triển những phẩm chất xã hội. Nhưng, những phẩm chất xã hội ở mỗi người là không giống nhau vì việc rèn luyện của mỗi người là khác nhau.

Bài thơ "Dạ bán" (Nửa đêm) trong "Nhật ký trong tù" của Hồ Chí Minh có hai câu: "Thiện, ác nguyên lai vô định tính, Đa do giáo dục đích nguyên nhân", được Nam Trân giải thích: "Thiện, ác vốn chẳng phải là bản tính cố hữu, phần lớn đều do giáo dục mà nên". Cách giải thích này đúng, nhưng khi dịch ra thơ, để đảm bảo vần điệu, Nam Trân dịch: "Hiền dữ phải đâu là tính sẵn, Phần nhiều do giáo dục mà nên"(3). Thật ra, thiện, ác dịch là hiền, dữ thì không chuẩn. Vì thiện, ác là thuộc về đạo đức; còn hiền, dữ là thuộc về cá tính; "hiền" chưa hẳn là "thiện", "dữ" chưa hẳn là ác.

Qua một số ví dụ nêu trên, chúng tôi cho rằng, để hiểu được thực chất và vận dụng đúng các thuật ngữ có nguồn gốc từ tiếng nước ngoài, chúng ta không có cách nào khác là phải truy tìm ngôn ngữ gốc của chúng. Mặt khác, chúng tôi đề nghị Nhà nước nên có những quy định thống nhất về cách phiên âm tên người, tên địa phương và cách dịch các thuật ngữ triết học, chính trị, xã hội tương đối thông dụng.r


(*) Phó giáo sư, tiến sĩ, Đại học Đà Nẵng.

(1) Cung Kim Tiến. Từ điển triết học. Nxb Thông tin, Hà Nội, 2002, tr.1200 -1201.

(2) Douglas J. Soccio, Archetypes of Wisdom: An Introduction to Philosophy, Wadsworth Publishing,  Ohio, 2006. Giáo trình này cũng được Trường Đại học Towson sử dụng trong chương trình đào tạo quốc tế ở Việt Nam.

(3) Xem: Hồ Chí Minh. Toàn tập, t.3. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.283.

Saturday, June 20, 2009

Phẩm cách quan trọng của người trí thức


18/06/2009 03:49:31 
(SVVN) Giáo sư Nguyễn Huệ Chi chia sẻ với SVVN về tư cách của trí thức, và sứ mệnh của trí thức trong sự nghiệp đưa đất nước ngày một cường thịnh.

GỌI TÊN TRÍ THỨC

Thưa GS, trong hình dung của GS, thế nào là một trí thức?

GS Nguyễn Huệ Chi: Theo tôi nghĩ, trí thức được hiểu theo hai phương diện: Một là học vấn tổng quát để hiểu về mọi phương diện của cuộc sống, chứ không chỉ bó hẹp trong chuyên môn thuần tuý. Nếu như chỉ là nhà chuyên môn sâu thuần tuý, suốt đời chỉ nhìn vào cái "khe hẹp" ấy thì không được coi là trí thức.

Mà anh có học vấn chung để nhìn cuộc đời trên tư thế của một người độc lập. Thứ hai, anh phải có một nhân cách làm chỗ tựa cho học vấn ấy phát huy, để giúp ích cho đời. Đó chính là hai phương diện quan trọng để nhận diện một trí thức.

Nhưng chưa phải ai cũng biết được rành rọt những đóng góp và vai trò của anh trí thức trong một xã hội?

GS Nguyễn Huệ Chi: Vốn trong thiên bẩm – người được gọi là trí thức đã có chức năng là phản biện xã hội. Cho nên ở cơ chế của một xã hội dân chủ, giới trí thức có thể làm được nhiều việc. Nguyên lý của xã hội là tạo cho người dân được quyền phát ngôn, được tự do suy nghĩ, góp phần làm cho xã hội năng động...

Anh trí thức phải là người đầu đàn để làm những việc đó một cách tốt nhất. Nhưng trong những xã hội độc tài xưa kia, thì người trí thức đứng ở một cự ly nhất định với trung tâm quyền lực. Khoảng cách ấy đủ để cho anh có được cái nhìn tương đối tỉnh táo, nhìn vào thế giới quyền lực, dõi mắt theo thế giới ấy, và lên tiếng khi nó "có vấn đề" ảnh hưởng đến xã hội, đến sự dân chủ.

Và với sự hiểu biết sau khi nghiên cứu về lịch sử Việt Nam, GS thấy tiếng nói của giới trí thức trong những xã hội xưa thế nào?

GS Nguyễn Huệ Chi: Ở xã hội phong kiến ngày xưa, giới trí thức Nho học được răn dạy rằng: Khi mình không làm được những thứ theo ý mình với mục đích làm xã hội tốt đẹp hơn, thì mình phải làm một việc để thể hiện khí phách và phẩm tiết của người trí thức là rút lui.

Mặc dù vẫn được trọng dụng, nhưng đề xuất chém lộng thần không được nghe, thì Chu Văn An cáo quan, treo mũ, từ biệt kinh thành về núi Phượng Hoàng (Chí Linh, Hải Dương) ở ẩn.

Xin nhắc lại, đấy là người trí thức trong những cơ chế xã hội xưa kia. Đó là một xã hội độc tài, độc tôn, lấy ông vua làm trung tâm. Hễ ông vua tốt thì xã hội thịnh, ông vua xấu thì xã hội suy. Còn trí thức ngày nay, khi xã hội chúng ta đã phát triển theo mô hình mới rồi, không phải là xã hội cũ nữa, thì rõ ràng vai trò của giới trí thức hiện nay phải tích cực hơn so với những trí thức trong xã hội cũ.

 

GS Hue Chi.jpg

 

KHÔNG "MŨ NI CHE TAI"

Hiểu thế nào về sự "tích cực hơn", thưa GS?

GS Nguyễn Huệ Chi: Tích cực hơn có nghĩa là anh không được làm những điều nhũng thoái. Anh đóng vai trò phản biện xã hội, lên tiếng khi có những vấn đề khẩn bách ảnh hưởng đến sinh mệnh của cả dân tộc, của cả đất nước, hoặc là của cả một bộ phận nào đấy ở trong dân tộc này.

Hoặc có nguy cơ làm cho con đường đi của đất nước có thể rơi vào một khó khăn nào đấy. Người trí thức phải biết hy sinh lợi ích của bản thân mình, kiên trì với những chính kiến của mình để đóng góp những điều có ích cho đất nước, cho dân tộc.

Người trí thức chân chính phải vì lợi ích lớn của dân tộc, của đất nước, hay của một bộ phận dân chúng nào đấy. Trong một thời đại được gọi là dân chủ, một bộ phận dân chúng nào đấy mà đang có nguy cơ mất sự sống an ổn thì người trí thức cũng không được thờ ơ.

Là một nhà nghiên cứu, theo GS, trí thức ngày xưa và trí thức ngày nay, có gì khác nhau?

GS Nguyễn Huệ Chi: Trí thức ngày xưa có thể lui về vườn để trở thành một người sống ẩn dật, hái củi, làm thơ. Nhưng người trí thức ngày nay, với trách nhiệm xã hội giao phó, không cho phép như thế. Vấn đề yếu kém của nền giáo dục hiện nay chẳng hạn, đó là một vấn đề, theo tôi, đang ở tình thế ngàn cân treo sợi tóc với dân tộc ta.

Nếu người trí thức không lên tiếng thì đã vô tình trùm "mũ ni che tai", và đó là thái độ không phải của một trí thức. Anh phải biết kiên trì theo đuổi chính kiến hy sinh lợi ích cá nhân. Đó là điểm khác biệt giữa trí thức ngày xưa và trí thức ngày nay.

Trí thức là tầng lớp tinh hoa của một dân tộc, vậy đóng góp của họ phải thể hiện như thê nào?

GS Nguyễn Huệ Chi: Đương nhiên, anh giỏi về chuyên môn, cắm cúi trong chuyên môn thì đó là một đóng góp rất tốt về mặt tri thức trong một ngành nào đấy. Nhưng những người đó không được hiểu theo kiểu những trí thức có trách nhiệm dẫn đạo xã hội, hay là bộ phận tinh hoa của xã hội.

Nhóm tinh hoa ấy bao giờ cũng tạo ra những định hướng có tầm để xã hội phát triển. Xã hội mà thiếu những định hướng tầm xa như thế thì sẽ khó có hướng để phát triển. Xã hội chỉ được tạo nên bởi những nhóm quyền lực, hoặc nhóm lợi ích thì luôn luôn bị chi phối bởi những lợi ích và quyền lợi khác nhau.

Phải là người đứng ở cự ly phía ngoài để nhìn vào quyền lực, nhìn vào các nhóm lợi ích và tìm ra hướng đi cho xã hội, thì lúc đó xã hội mới phát triển đúng hướng được. Vai trò, sự đóng góp của người trí thức thể hiện ở chỗ đó.

 

GS Hue Chi3.jpg

 

PHẨM CÁCH QUAN TRỌNG CỦA NGƯỜI TRÍ THỨC

Trong các phẩm cách của người trí thức, theo GS, phẩm cách nào là quan trọng nhất?

GS Nguyễn Huệ Chi: Người trí thức bao giờ cũng có mấy phẩm cách sau:

Thứ nhất , phải có sự tự do trong tư tưởng – đó là một phẩm cách hàng đầu. Bởi vì nếu anh để tư tưởng bị khuất phục bởi một thứ giáo điều nào đấy, thì không bao giờ anh có sự sáng tạo được, và cách nghĩ của anh sẽ méo mó, thiên lệch, thậm chí là thấp hèn.

 Thứ hai, là sự độc lập đối với quyền lực. Quyền lực đương nhiên là chúng ta phải tôn trọng, vì quyền lực là đại diện cho chỗ đứng cao nhất của một bộ phận đang điều khiển đất nước. Nhưng phải luôn luôn có một sự độc lập để tỉnh táo nhận biết đâu là chỗ đúng, chỗ sai, để nhận thấy những khiếm khuyết, chỗ nào không khiếm khuyết của xã hội.

Một xã hội không bao giờ có những con người tuyệt đối tốt, tuyệt đối hoàn hảo, mà họ dù ở cương vị nào cũng chỉ là những con người thôi. Mà đã là người thì bao giờ cũng có những mặt được, mặt hạn chế, nhất là trong xã hội hôm nay người ta luôn bị chi phối bởi nhiều nhóm lợi ích, sau mỗi con người là những nhóm lợi ích khác nhau.

Do vậy, con người thường không hoàn hảo, do đó càng đòi hỏi người trí thức phải có sự độc lập suy nghĩ để tìm ra cái hay, cái đúng, cái sai, cái xấu... Và việc tìm ra cái hay, cái đúng, cái sai, cái xấu... này để phục vụ lợi ích tối thượng của đất nước, chứ không phải là của những nhóm quyền lực khác. Tóm lại, người trí thức phải đứng ở chỗ đứng khách quan nhất.

Như tinh thần trao đổi trên đây của GS, thì chưa hẳn người có học hàm học vị đã được gọi là Trí Thức?

GS Nguyễn Huệ Chi: (Cười lớn) Theo tôi, xã hội ngày nay nhất thiết phải có những chức danh, học vị cho người trí thức. Chẳng biết có phải vì lý do đó mà có nhiều GS, TS, thậm chí có cả những ông đi mua bằng ở nước ngoài về để trở thành Viện sĩ, mà thực chất đó cái bằng Viện sĩ đó chỉ có mấy trăm USD thôi (Cười buồn).

Nhưng không phải cứ gắn vào một cái mác là GS, TS, hay Viện sĩ thì đã được gọi là trí thức, mà trí thức là phải xét ở phương diện anh có thực hiện được chức năng và phẩm cách của một trí thức hay không. Và trong những bước ngoặt, bước gấp khúc của đất nước thì anh đứng ở chỗ nào, anh bỏ quên lợi ích của cá nhân anh vì đất nước hay chỉ là vì "vinh thân phì gia" của bản thân.

Tôi không bao giờ xét trí thức ở mấy chữ phía ngoài. Tôi thấy những người không gắn học vị gì cả nhưng tư cách trí thức hết sức đàng hoàng, như nhà văn Nguyên Ngọc chẳng hạn, anh ấy không có học vị học hàm nào cả, nhưng anh ấy là trí thức 100%, xứng đáng là trí thức ưu tú; hay như nhà văn Phạm Toàn có học vấn cực kỳ cao, nhưng anh ấy không gắn với bất cứ cái danh vị nào cả.

GS thấy thế nào khi mà hiện nay, có những người có chức danh GS, học vị tiến sĩ... nhưng lại mang danh đó để đi quảng bá các sản phẩm như đồ uống, dược phẩm..., và xem đó như là một việc mưu sinh? Như thế họ đã thể hiện đúng vai trò của một trí thức chưa?

GS Nguyễn Huệ Chi: Xã hội hiện nay đang theo hướng kinh tế thị trường, phải bán sản phẩm, phải kinh doanh để sống... Do vậy, anh trí thức cố nhiên cũng phải bị chi phối bởi quy luật ấy. Cho nên có những người mang danh là GS, TS nhưng đi quảng cáo cho những món hàng nào đó.

Tôi nghĩ, chúng ta nên thông cảm cho họ, vì thực chất họ cũng đang đi mưu sinh, việc này cũng chẳng khác là mấy so với mấy cô gái xinh đẹp đứng ra làm PG(promotion girl) vậy thôi. Những người ấy đáng thông cảm hơn là đáng chê bai, nhưng tuy nhiên, đấy không phải là hành vi của người thuộc tầng lớp trí thức, mà đó chỉ là hành vi của người đang mưu sinh mà thôi.

Xin cảm ơn GS!

 

Lê Ngọc Sơn (Thực hiện)

 

"Có những người rất trẻ nhưng đã có tư cách vững vàng của một trí thức, nhờ được đào tạo, dạy dỗ trong truyền thống của gia đình, có học vấn rất cao. Còn những người đã già, nhưng đầu óc vẫn sáng láng, vẫn giữ được phẩm cách và phát huy được học vấn của mình thì vẫn xứng đáng là một trí thức sáng láng. Trí thức không phụ thuộc vào tuổi tác. Chỉ khi nào người ta đánh mất các phẩm cách của người trí thức thì lúc đấy mới không còn được gọi là trí thức nữa".