Wednesday, April 28, 2010

Dựng nước sau trận đại hồng thủy

 
 

Đền tưởng niệm vua Hùng ở Công viên văn hóa Suối Tiên Q.9, TP.HCM - Ảnh: Diệp Đức Minh

Ngày nay Giỗ tổ Hùng Vương đã chính thức thành ngày Quốc giỗ. Dù còn nhiều ý kiến khác nhau trong giới nghiên cứu, nhưng trong tâm trí người Việt Nam nước ta vẫn là nước có 4.000 năm văn hiến. Những phát hiện mới nhất về cổ địa chất mà chúng tôi giới thiệu sau đây là tư liệu quý giá để hình dung rõ hơn về diện mạo đất nước thời các vua Hùng.

Kỳ 1: Điều gì xảy ra khi "đùng một cái" biển dâng 5 mét rưỡi?

Khi đem quân đánh Tống để ngăn chặn mưu đồ xâm lược, Lê Hoàn đã cho lập Ngọc phả Hùng Vương. Đó là bản Ngọc phả xưa nhất mà truyền bản hiện nay còn lưu giữ. Trước đó, Đinh Tiên Hoàng đã cho xây Đền Hùng chính tại nơi đóng đô của các vua Hùng (được ghi trong Ngọc phả). Điều lạ lùng là trải qua những biến cố lịch sử, Ngọc phả nhà Lý, Ngọc phả nhà Trần, cả Ngọc phả nhà Lê cũng thất lạc, nhưng Ngọc phả Hùng Vương thì vẫn còn. Phải chăng những gì thuộc về hồn thiêng sông núi đều là những thứ không thể hủy diệt được, không thể mất đi được?

 

 Sơ đồ cổ địa lý đồng bằng Bắc Bộ trước biển tiến đột biến cách nay 4115 năm 

Hoàng Ngọc Kỷ, 2008

Sơ đồ cổ địa lý sau giai đoạn biển tiến đột biến khi mực nước biển ở +3,5m và ổn định đến tại 1.015 năm, diện tích đồng bằng chỉ còn 1/4 so với trước đó và bằng 1/10 so với hiện nay 
                                                       Hoàng Ngọc Kỷ, 2008

Về sử liệu, cuốn sử xưa nhất được biết đến (nhưng đã thất truyền) là cuốn Đại Việt sử ký của Lê Văn Hưu viết thời nhà Trần, không ghi thời Hùng Vương. Nhưng cuốnĐại Việt sử lược (còn gọi là Việt sử lược), cũng là cuốn sử xưa nhất viết thời nhà Trần (cuốn này cũng thất lạc, nhưng được khắc in ở Trung Quốc thời nhà Thanh, nên chúng ta may mắn còn truyền bản) lại có ghi thời Hùng Vương, tuy ghi một cách sơ sài. Đến thời Lê, thời Hùng Vương được chính thức ghi thành một Kỷ trong Đại Việt sử ký toàn thư: Kỷ Hồng Bàng.

Ngô Sỹ Liên đã kết hợp những sử liệu từ Trung Quốc (chủ yếu trong Tiền Hán thư) và câu chuyện trong cuốn huyền sử viết vào cuối thời Trần: cuốn Lĩnh Nam chích quái. Lấy nguồn từ Lĩnh Nam chích quái, Ngô Sỹ Liên có đối chiếu với những gì có thể đối chiếu được, vì vậy trong Kỷ Hồng Bàng ông có xác định niên đại rõ ràng. Vả lại thời kỳ đầu dựng nước là thời kỳ không thể không có trong lịch sử, vấn đề là diện mạo của nó như thế nào mà thôi. Việc chính thức đưa Hùng Vương vào sử sách chắc chắn là do chỉ đạo của vua Lê Thánh Tông, vì việc đó thực hiện cùng lúc với việc nhà vua anh minh này cho lập Ngọc phả Hùng Vương và tuyên bố "một tấc đất của cha ông cũng không để mất".


 


 

Tiến sĩ Hoàng Ngọc Kỷ từng là giám đốc kiêm chủ nhiệm nhiều phương án nghiên cứu đo vẽ bản đồ địa chất Đệ Tứ đồng bằng Việt Nam, ông còn là đại diện Việt Nam tham gia nghiên cứu các đề tài địa chất Đệ Tứ khu vực Đông Nam Á và Thái Bình Dương của Chương trình Liên kết địa chất quốc tế (IGCP 218 và IGCP296) và đề tài Khí hậu trong quá khứ CLIP của UNESCO. Những kết quả nghiên cứu về địa chất và môi trường Đệ Tứ của ông hơn 30 năm qua đều là những vấn đề mới đang thu hút sự quan tâm của nhiều nhà khoa học trong nước và quốc tế, không những có giá trị ứng dụng đối với việc quy hoạch phát triển kinh tế, đối với việc khai khoáng mà còn có ý nghĩa đối với khoa học lịch sử, đối với văn hóa, xã hội.

 

Hơn nữa Lê Thánh Tông chủ trương viết quốc sử trong hoàn cảnh sử liệu bị mất mát nghiêm trọng do mưu đồ tận diệt văn hóa dân tộc của thế lực phương bắc mỗi lần xâm lược nước ta, nên ông đã đề nghị tập hợp tất cả các nguồn tài liệu có thể tập hợp được, kể cả dã sử. Mọi thứ đều được ghi lại để đời sau tiếp tục đối chiếu, thẩm định, điều này có ghi rõ trong Đại Việt sử ký toàn thư.

Từ đó đến nay nhiều tài liệu về thời Hùng Vương không ngừng được bổ sung. Đặc biệt từ cuối thập kỷ 60 và thập kỷ 70 của thế kỷ trước, giữa lúc người Mỹ đem bom dội xuống miền Bắc và tuyên bố "đưa Việt Nam về thời kỳ đồ đá", bên cạnh sự đáp trả bằng vũ khí của chính nghĩa, một chiến dịch khám phá thời kỳ Hùng Vương quy mô lớn nhất trong lịch sử đã được tiến hành do đích thân Thủ tướng Phạm Văn Đồng chỉ đạo. Kết quả của cuộc khám phá này, nhất là kết quả của khảo cổ học, từ văn hóa Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun đến Đông Sơn..., không những chứng minh thời kỳ này là có thật mà còn phát hiện biết bao nhiêu điều kỳ thú của văn minh dân tộc. Đó là một sự đáp trả bằng văn hóa.

Truyền thuyết và sử liệu ít ỏi đã được bổ sung bằng những sự thật nằm trong lòng đất. Nhưng những gì tìm kiếm được mới chỉ cho phép phác thảo một diện mạo ban đầu cộng với rất nhiều tranh luận. Những bí ẩn của thời kỳ Hùng Vương kéo dài trên dưới 2.000 năm trước Công nguyên đang và sẽ là cảm hứng thu hút các sử gia và các nhà khoa học hiện nay và nhiều thế hệ sau này nữa.

Hai năm trước, khi đọc loạt bài viết liên quan đến thời Hùng Vương đăng trên BáoThanh Niên, một nhà địa chất học - tiến sĩ Hoàng Ngọc Kỷ có gửi thư đến tòa soạn cho biết ông sẽ cung cấp những tài liệu về cổ địa lý để góp phần nghiên cứu thời Hùng Vương. Chúng tôi đã đọc kỹ những tài liệu của ông, đã nhiều lần trao đổi với ông và càng tìm hiểu càng thấy thú vị.

Theo kết quả nghiên cứu của tiến sĩ Kỷ, thời kỳ địa chất Đệ Tứ (khoảng 2 - 2,5 triệu năm trước đến ngày nay) Việt Nam có 4 lần biển thoái và 4 lần biển tiến, hình thành 8 tầng trầm tích nguồn gốc lục địa và biển đan xen chuyển tiếp với nhau.

Những khảo sát địa chất cũng cho thấy trong 4 lần biển tiến thì lần thứ 3 là biển tiến đột biến. Độ cao và niên đại của đợt biển tiến này có thể đo được.

Thời điểm biển tiến đột biến có niên đại đo được là 4115 năm cách ngày nay (có sai số ± 50 năm). Nước biển dâng với biên độ 5,5 mét. Do mực nước giai đoạn cuối của thời kỳ biển thoái trước đó là - 2 mét (âm 2 mét) so với mặt nước biển hiện nay, nên mực nước do biển tiến đột biến thời kỳ này dâng lên 3,5 mét so với mặt nước biển hiện nay. Mực nước này duy trì ổn định kéo dài một khoảng thời gian là 1.015 năm, đến cách đây 3100 năm biển mới bắt đầu thoái.

Một sự trùng hợp ngẫu nhiên vô cùng thú vị: Đây chính là thời kỳ ra đời Nhà nước Hùng Vương, là khởi đầu của một nền văn minh mà chúng ta tự hào gọi là lịch sử 4.000 năm văn hiến.

Nhưng điều gì đã xảy ra khi "đùng một cái" nước biển dâng lên 5,5 mét và điều gì đã xảy ra khi mực nước cứ "ở lỳ" tại đó hơn 1.000 năm?

Trước hết, hãy nhìn hai tấm sơ đồ địa lý đồng bằng Bắc bộ thời đó trước và sau khi biển tiến: Diện tích đất đai sau khi biển tiến chỉ còn bằng 1/4 so với thời kỳ trước đó và chỉ bằng khoảng 1/10 so với diện tích hiện nay. Và chúng ta hãy hình dung: Cả một vùng đất đai màu mỡ rộng lớn bây giờ gồm Hải Dương, Hưng Yên, Hà Đông, Hà Nội, một phần của Bắc Ninh... đã chìm trong nước biển. Những nơi trước đây là gò đồi thì biến thành hàng trăm đảo nhỏ nằm giữa một vùng vịnh nông nhưng rộng lớn bằng 90% diện tích đất đai bây giờ. Cha ông ta đã phải sống như thế nào, đã phải thích nghi như thế nào với một cơn đại hồng thủy thực sự như vậy? (Còn tiếp)

 
 

Hình chữ V nằm ngang do nước biển mài mòn tại Kim Sơn, Phát Diệm (Ninh Bình) - Ảnh: tư liệu

Kỳ 2: Cái nhìn mới về Sơn Tinh - Thủy Tinh và chuyện Trăm trứng

Những vết tích trên đá, trong lòng đất cho chúng ta thấy một cơn đại hồng thủy đã diễn ra hơn 4.000 năm trước. Chuyện Sơn Tinh - Thủy Tinh lại diễn ra vào thời Hùng Vương. Phải chăng đây là câu chuyện nói về sự kiện biển tiến đột biến này?

Vì sao gọi là biển tiến đột biến? Tài liệu khảo sát địa chất của tiến sĩ Hoàng Ngọc Kỷ và các nhà địa chất học khác cho thấy:

+ Vết tích bào mòn của sóng biển trên vách đá tạo thành hình chữ V nằm ngang được ghi nhận trên chân vách đá nằm trong đồng bằng ở Kim Sơn (Ninh Bình) và những nơi khác ở Hà Nam, Hải Dương, Hải Phòng, Hà Tây, vịnh Hạ Long, đảo Cát Bà... đều có độ cao trung bình 3,5 mét so với mặt nước biển hiện nay. Những vết tích bào mòn như vậy còn được ghi nhận trên hòn Trống Mái ở bờ biển Sầm Sơn (Thanh Hóa) và nhiều nơi khác ở Bắc Trung Bộ, ở Nha Trang, Bà Rịa-Vũng Tàu, đảo Phú Quốc Nam Bộ. Những vết bào mòn hình chữ V đó chứng tỏ mực nước biển ổn định trong một thời gian rất dài.

+ Những khu rừng thực vật bị chôn vùi dưới lớp sét biển với những thân cây chết thẳng đứng rễ còn bám đất đã được tìm thấy tại Hà Nội, Hà Nam, Bắc Ninh, Ninh Bình, Hưng Yên, Hà Tây và nhiều nơi khác. Tiêu biểu là tại huyện Gia Lộc, Hải Hưng vào năm 1977 khi khai thác sét để sản xuất gạch ngói, người ta đã phát hiện những cây dừa nước bị chôn vùi, thân cây gồm cành lá và gốc rễ đều còn nguyên vẹn trong lớp sét mịn ở độ sâu 3 mét, dùng C14 để xác định tuổi, người ta đã xác định niên đại của cây dừa nước là 4.115 ± 50 năm. Đó chính là niên đại của biển tiến đột biến. Những rừng cây vẫn còn nguyên chết thẳng đứng chứng tỏ chúng đã bị chôn vùi trong môi trường yếm khí nước sâu, do biển tiến đột ngột bao trùm trên diện rộng, biên độ biến đổi lớn với tốc độ nhanh, riêng những cây có đường kính lớn thì nằm ngang do chúng cao hơn mực nước biển nên khi chết đã ngã xuống, quá trình trầm tích đã chôn vùi chúng dưới lớp sét dày.

+ Những đống vỏ hàu lớn được các nhà khảo cổ học phát hiện ở nhiều nơi có niên đại lớn hơn lớp thực vật và chôn vùi như lớp thực vật đó, chứng tỏ đống vỏ hàu này không phải được tạo thành ở môi trường tự nhiên mà chỉ có thể do con người từng sống ở đây bắt chúng làm thức ăn để lại vỏ.

+ Lớp sét xanh dẻo mịn và đồng nhất phủ trên lớp thực vật và bãi hàu có độ dày 2-3 mét  được phân bố trên diện rộng nằm trên độ cao của lớp thực vật bị chôn vùi và nằm dưới những vết tích hình chữ V có mối liên quan với nhau. Vết tích mài mòn trên vách đá và chiều dày trầm tích bên dưới là bằng chứng không chỉ của hiện tượng biển tiến đột biến mà còn là bằng chứng của việc mực nước biển đã "nằm lỳ" ở đây trong một thời gian dài trước khi biển thoái. Thời gian mực nước biển "nằm lỳ" ở độ cao 3,5 mét được tính là 1.015 ± 80 năm, sau đó biển bắt đầu thoái.

Làm sao biết được nó đã "nằm lỳ" ở đó 1.015 năm? Những khảo sát về lớp hàu bé bám trên vách đá dưới vết tích hình chữ V nằm ngang cho biết điều đó. Trên vách đá dưới mực nước biển có một lớp hàu bám vào sinh sống, khi nước biển rút xuống lớp hàu vẫn bám trên vách đá và chết đi. Người ta dùng C14 để đo độ tuổi của lớp hàu này và xác định được niên đại là 3.100 ± 80 năm. Lớp hàu chết đánh dấu thời điểm mực nước rút xuống, lấy thời điểm nước lên là 4.115 năm trừ đi thời điểm nước rút 3.100 năm thành thời gian "nằm lỳ" của nó là 1.015 năm.

Như vậy là những khảo sát cổ địa chất cho thấy rất rõ từ hơn 4.000 năm trước, biển đã đột ngột dâng cao 3,5 mét và độ cao đó đã duy trì ổn định hơn 1.000 năm. Thời kỳ địa chất này tương ứng với thời Hùng Vương dựng nước ghi trong lịch sử.

Và như đã nói ở phần trước, đồng bằng Bắc Bộ chỉ còn lại một diện tích bé nhỏ bằng 1/4 trước đó và chỉ bằng 1/10 diện tích bây giờ (cần biết: mực nước hiện nay cao hơn mực nước trước khi biển tiến đột biến 2 mét, theo suy luận thông thường thì diện tích đồng bằng hiện nay phải bé hơn diện tích đồng bằng trước khi biển tiến đột biến, nhưng thực tế lại lớn hơn rất nhiều, lý do là quá trình biển tiến và biển thoái đã tạo ra trầm tích khiến cho đồng bằng bây giờ được mở rộng). Người Việt Nam ta không ai là không biết truyền thuyết Sơn Tinh - Thủy Tinh, đó có lẽ là truyền thuyết lâu đời nhất của dân tộc. Câu chuyện này được  ghi trong Kỷ Hồng Bàng của Đại Việt sử ký toàn thư, nhưng Ngô Sỹ Liên đã cẩn thận ghi chú: "(đây là câu chuyện) tin sách chẳng bằng không có sách, hãy tạm thuật lại chuyện cũ để truyền lại sự nghi ngờ thôi".

Ngày nay chúng ta đã biết đến cơn đại hồng thủy 4.000 năm trước. Chuyện Sơn Tinh - Thủy Tinh lại diễn ra vào thời Hùng Vương. Vì vậy, chỉ có thể giải thích đây là câu chuyện nói về sự kiện biển tiến đột biến này. Đó chính là thiên anh hùng ca của người Việt chống lại, nói đúng hơn là thích nghi để tồn tại trước cơn đại hồng thủy kinh hoàng nhất trong lịch sử từng in đậm dấu ấn trong người xưa, được cách điệu để lưu truyền cho hậu thế.

Còn câu chuyện Trăm trứng, có lẽ cũng ra đời trong bối cảnh này. Đó là câu chuyện tuyên bố cội nguồn dân tộc. Lạc Long Quân lấy Âu Cơ sinh trăm trứng nở trăm con, 50 người theo mẹ lên núi, 50 người theo cha xuống biển, dân tộc hình thành từ đó. Ngô Sỹ Liên không cho chuyện ấy là hoang đường. 50 người lên núi thì đã rõ, còn 50 người xuống biển thì đi đâu? Phải chăng do đất đai lúc đó bị thu hẹp, dân tộc ta đã phải tự tổ chức lại, vừa phải khai phá những vùng đất trên núi, vừa tận dụng hàng trăm hòn đảo được hình thành do biển tiến để tổ chức lại cuộc sống. "Xuống biển", nghĩa là đến ở tại những hòn đảo này.

Có lẽ khi ấy không có chiến tranh, trước khi biển tiến, con người tự do sinh sống một cách riêng lẻ bằng đánh bắt, hái lượm, canh tác trên một vùng đất bao la màu mỡ. Bỗng nhiên môi trường sống bị thu hẹp, thu hẹp một cách khắc nghiệt. Muốn sống được, con người phải đoàn kết lại. Chuyện Sơn Tinh - Thủy Tinh và chuyệnTrăm trứng chính là những bản tuyên ngôn, tạo tiền đề để dựng nước. (Còn tiếp)

Biểu đồ dao động mực nước biển 7.000 năm nay: Mực nước ổn định trong khoảng thời gian từ 4.115 năm đến 3.100 năm cách ngày nay, đạt cực tiểu vào 2.300 năm cách ngày nay, sau đó tiến cao dần lên mức hiện nay

 


 

Hòn Gà Chọi trên vịnh Hạ Long: Hình chữ V nằm ngang phía trên là vết tích gặm mòn của đợt biển tiến đột biến. Hình chữ V nằm dưới là vết tích gặm mòn trước khi biển tiến đột biến và sau khi biển thoái nhanh cho đến ngày nay 

Biển tiến 3,5 mét, các vua Hùng dựng nước để đối phó với thiên tai. Biển lùi - 6 mét, dân tộc phải đương đầu với quân cướp nước.

Chúng ta không thể hình dung khi đất đai bị thu hẹp chỉ còn lại núi và vùng đồi khô cằn do bị xâm thực, cha ông ta đã phải thích nghi như thế nào. Nhưng điều chắc chắn là con người không thể sống riêng lẻ như trước nữa, mà phải tổ chức lại cuộc sống để thích nghi với môi trường thiên nhiên khắc nghiệt. Trước đây với đất đai rộng lớn màu mỡ, con người có thể hái lượm, đánh bắt, canh tác với công cụ bằng đá thô sơ thì nay không thể sống theo cách đó được.

Việc cải tiến công cụ và phân công lao động được đặt ra một cách bức thiết.

Trong một số hoàn cảnh cụ thể của lịch sử nhân loại thì nhà nước ra đời khi con người đứng trước sự đe dọa sống còn mà bản thân mỗi người không thể tự mình đối phó được. Hai mối đe dọa chủ yếu là thiên tai và chiến tranh. Thời đó chắc là chưa có chiến tranh, nhưng mối đe dọa từ thiên nhiên là kinh khủng. Muốn tồn tại trong điều kiện biển tiến đột biến thời đó, tổ tiên ta ít nhất phải giải quyết 3 vấn đề: đoàn kết thành cộng đồng, phân bố lại dân cư và cải tiến công cụ lao động.

"50 người lên núi, 50 người xuống biển" nếu không phải là phân bố dân cư thì là gì? Nó còn là chỉ báo nói lên sự đoàn kết, không đoàn kết thì làm sao dắt nhau lên núi, dắt nhau xuống biển? Và phải có một cộng đồng có quyền lực đủ mạnh mới có thể làm được việc đó. Nó phải do nhà nước tiến hành.

Từ những di chỉ khảo cổ học, các nhà sử học cho rằng với thời đại đồng thau, chúng ta bước vào thời kỳ nước Văn Lang, tức là Nhà nước Hùng Vương ra đời sau khi cha ông ta chế tác được các công cụ bằng đồng. Nhưng theo tiến sĩ Hoàng Ngọc Kỷ, Nhà nước Văn Lang nhất định phải có trước khi có đồ đồng. Theo ông, việc khai thác và chế tác đồng là không hề đơn giản, vì trong tự nhiên không có đồng nguyên chất, nó chỉ chứa trong quặng và với hàm lượng không cao, phải luyện mới ra đồng. Ông nói ngay cả trong thời đại công nghệ ngày nay thì việc thăm dò, khai thác tuyển quặng và luyện kim đồng vẫn còn là việc phức tạp. Chỉ có một xã hội trình độ cao, nói thẳng ra là phải có nhà nước thì mới có thể tổ chức thăm dò, khai thác và luyện đồng được. Tất nhiên quá trình chế tác công cụ bằng đồng phải trải qua rất nhiều thế hệ mới đến một trình độ tinh xảo như chúng ta biết ngày nay qua các di chỉ khảo cổ học. Cần biết thêm, những di chỉ đồ đồng được phát hiện từ văn hóa Đồng Đậu, Gò Mun đến Đông Sơn... đều nằm ở độ cao trên 3,5 mét và hậu thế không thể không cúi đầu bái phục tài nghệ của tiền nhân.

Cho nên, có thể đưa ra một luận cứ rằng, cơn đại hồng thủy đã đẩy người Việt đến chỗ thúc bách phải xây dựng một nhà nước. Đó là Nhà nước Hùng Vương. Những phát hiện cổ địa chất có thể giúp các nhà sử học nghiên cứu thêm để xác định niên đại ra đời của Nhà nước Hùng Vương mà theo tiến sĩ Hoàng Ngọc Kỷ, nhà nước đó ra đời ngay sau khi biển tiến đột biến, nếu chậm hơn cũng không lâu.

 

Hàu bé hóa thạch có niên đại 3.100 năm trên vách đá cách cửa chùa Hang (Kiên Giang) 10 mét ở độ cao 2 - 3 mét bằng độ cao vách dưới hình chữ V nằm ngang do mực nước biển mài mòn. Đây là niên đại đánh dấu thời kỳ biển bắt đầu thoái

Và giữa lịch sử và địa lý lại tiếp tục có mối tương quan thú vị khác. Sau hơn 1.000 năm nằm lì ở độ cao 3,5 mét, biển đã đột ngột hạ xuống 1,5 mét, mực nước còn cao hơn 2 mét so với hiện nay. Đặc biệt, biển thoái đột biến đã khiến cho những dòng sông chảy cắt ngang qua đồng bằng hình thành từ thời biển tiến trước đó thành những đoạn sông thẳng kéo dài trước khi phân nhánh, đó là đoạn sông Hồng từ Mê Linh, Vĩnh Phúc tới thị xã Hưng Yên, sông Thái Bình từ Phả Lại đến Thanh Miên ở Bắc Bộ, hay sông Hậu từ Châu Đốc đến Cần Thơ, sông Tiền từ Hồng Ngự đến Mỹ Thuận. Sau đó biển thoái từ từ và đạt đến cực tiểu - 6 mét so với mực nước biển hiện nay.

Dấu tích của thời kỳ biển thoái này còn để lại hình chữ V  nằm ngang trên các vách đá bị mài mòn, tuổi tuyệt đối của lớp vỏ hàu bé trên vách đá và lớp than bùn trên các kênh rạch cổ...

Mực nước biển hạ đột ngột 1,5 mét có niên đại 3.100 năm ±80 năm. Đến khoảng 2.300 năm cách ngày nay thì hạ xuống mức cực tiểu - 6 mét. Sau đó là thời kỳ biển tiến, tiến từ từ cho đến ngày nay.

Điều gì đã và có thể diễn ra trong thời kỳ này? Thử hình dung: Khi biển hạ xuống - 6 mét, diện tích đồng bằng đã mở rộng ra bát ngát. Đất liền đã mở ra hàng chục km hướng biển Đông và diện tích đất nước rộng hơn gấp rưỡi so với bây giờ.

Với một đồng bằng phì nhiêu rộng lớn, nước ta lúc ấy trở thành một đích ngắm cho thế lực xâm chiếm từ phương Bắc. Tổ tiên ta lúc này có lẽ không phải đối phó nhiều với thiên nhiên nữa mà bắt đầu một cuộc đấu tranh dai dẳng chống xâm lược. Chuyện Thánh Gióng là sự ghi dấu của thời kỳ đồ sắt và là thiên anh hùng ca chống ngoại xâm của dân tộc ra đời vào thời kỳ này.

Tóm lại Nhà nước Hùng Vương hình thành sau một sự cố thiên tai có thể liệt vào loại nghiệt ngã nhất trên hành tinh và khi được thiên nhiên ưu đãi, dân tộc phải đem máu xương ra giữ nước. Trải qua những giai đoạn thăng trầm trong suốt chiều dài lịch sử, những gì của cha ông để lại là trường tồn muôn đời cho con cháu. "Các vua Hùng có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ nước", người Việt Nam không ai có thể quên được lời nói bất hủ đó của Chủ tịch Hồ Chí Minh.


 

Tuesday, April 20, 2010

THÁNG TƯ MIÊN MAN TÙY BÚT - Vũ Ngọc Tiến

THÁNG TƯ MIÊN MAN TÙY BÚT

 

Vũ Ngọc Tiến

 

 

Giờ đã là giữa tháng 4/2010, sắp đến ngày tròn 35 năm đất nước thống nhất từ đỉnh cổng trời Hà Giang đến đất mũi Cà Mau. Cái giá phải trả cho sự kiện này không nhỏ: 1,1 triệu liệt sĩ, trong đó 500 ngàn người có mộ được quy tập đủ danh tính, 300 ngàn người phải chịu nằm dưới mộ vô danh và 300 ngàn người vẫn chưa tìm thấy hài cốt. Ở phía bên kia cuộc chiến, các con số tương đồng cũng đâu có thua kém và họ cũng là con dân nước Việt cả thôi! Là người viết văn, nhưng có thói quen điều tra xã hội học, ghi chép lại làm lưng vốn cho ngòi bút của mình nên trong đầu tôi miên man ám ảnh bởi những con số, trôi ra thành câu chữ trăn trở trên mặt giấy giữa tháng tư lịch sử này…

 Ba mươi lăm năm sau cuộc chiến, nếu tôi chen số "0" vào giữa sẽ là 305 ngàn ha rừng đầu nguồn ở 10 tỉnh biên giới đã được mấy ông quan đầu tỉnh tùy tiện cho nước ngoài thuê 50 năm mà giá thuê 1m2/năm chỉ đủ mua vài cọng rau muống thôi ư? Điều đáng để tôi trăn trở âu lo là trong đó có 240 ngàn ha rừng được cho các chủ doanh nghiệp nói tiếng Hoa, quốc tịch Trung Quốc, Đài loan, Malaysia "thuê đất trồng rừng" ở những vùng biên giới nhạy cảm! Tôi đã thử điều tra một dự án của họ ở mấy xã thuộc huyện Tràng Định- Lạng Sơn, chợt giật mình vì hình như nếu tôi không nhớ lầm thì gần 40 năm trước mình đã từng thăm dò quặng bauxite bằng phương pháp địa vật lý. Hay như một dự án trồng rừng khác ở Hà Giang, tôi ngờ rằng trong phạm vi mấy xã đó có những điểm triển vọng vàng sa khoáng. Nói đến rừng đầu nguồn, tôi lại liên tưởng đến vấn nạn xuất hiện tràn lan, vô tổ chức các công trình thủy điện vừa và nhỏ, không chỉ dẫn đến nguy cơ tàn phá rừng, hủy hoại môi sinh, xả lũ vô tội vạ ở Quảng Nam, Quảng Ngãi năm ngoái mà còn chiếm mất diện tích canh tác tốt nhất của đồng bào các dân tộc miền núi phía Bắc. Điều tra quanh thị trấn du lịch, nghỉ dưỡng Sa Pa, trong bán kính 30 km có tới 17 dự án thủy điện nhỏ? Ai cũng biết, địa điểm thiết kế lòng hồ thủy điện nhỏ lý tưởng là thung lũng giữa núi, đó cũng là nơi có ruộng trồng lúa vốn rất hiếm hoi của người Dao, Mông, Thái, Tày, Nùng…ở Tây bắc, Việt Bắc. Họ mất rừng, mất ruộng nên lũ lượt tha hương làm dân di cư tự do vào các tỉnh Tây Nguyên, bỗng chốc họ từ nạn nhân trở thành thủ phạm phá rừng vì buộc phải đốt rẫy làm nương ở nơi đất mới. Cái vòng luẩn quẩn phá rừng kia bao giờ chấm dứt? Câu hỏi này tôi đã từng đặt ra trong lọat 5 bài viết về Tam Nông trên báo Văn Nghệ Trẻ, nhân hội nghị Trung ương 7, khóa X họp vào giữa năm 2007, vẫn rơi vào im lặng.

 Tháng tư năm nay cũng vừa tròn 45 năm chiến thắng Hàm Rồng (3/4/1965- 3/4/2010). Không ai có thể phủ nhận đây là chiến thắng vĩ đại, oanh liệt nhất trong năm đầu tiên của cuộc chiến tranh đất đối không vô cùng ác liệt. Chỉ trong 2 ngày, trung đoàn pháo binh 228 đã cùng dân quân các làng Yên Vực, Nam Ngạn, Đông Sơn đã kiên cường bám trụ, bắn hạ 87 máy bay phản lực Mỹ, giữ được cây cầu Hàm Rồng nguyên vẹn. Tôi đã 2 lần đi làm phim về trận đánh này (2005 và 2010) nên hiểu rõ mất mát hy sinh ở đây suốt những năm chiến tranh cũng rất lớn. Trên diện tích khoảng 1 cây số vuông quanh của khu vực Hàm Rồng, người Mỹ đã trút xuống 20 vạn tấn bom, 8.000 người đã chết, 13.000 người bị thương vong. Những con số ám ảnh tâm thức, xui khiến tôi năm 2005 đã cất công đi tìm nhân chứng lịch sử- ông Nguyễn Văn Bê, một trong số 13.000 người bị thương bên cây cầu Hàm Rồng. Ông Bê quê ở xã Nga Lĩnh, huyện Nga Sơn, nhưng vào lúc tôi đi tìm, ông đang cuốc đất thuê cho chủ trang trại trồng dứa ở ngoại vi thị xã Bỉm Sơn. Ông bị thương trong trận đánh ngày 3/4/1965. Một mảnh bom đã găm qua mũ sắt, chui vào đỉnh đầu, đến nay chỗ bị thương vẫn còn phập phồng mảng da đầu. Sau khi ra viện, xuất ngũ vài năm thì vết thương trên đầu mới tái phát, biến ông Bê thành người ngu ngơ, biết gì về các thủ tục vốn đã khá phiền phức để hưởng tiêu chuẩn thương binh. Tính đến thời điểm 2005 là vừa tròn 40 năm ông không hề được hưởng tiền trợ cấp. Trớ trêu ở chỗ chiếc mũ sắt có vết thủng trên đỉnh đầu của ông lại cũng được người ta đem trưng bày ở nhà Bảo tàng cách mạng tỉnh Thanh suốt 40 năm ấy, còn người thủng đầu, nghe thiên hạ đồn: "Ông muốn có sổ trợ cấp phải làm thủ tục "đầu tiên", không có thì nghỉ cho khỏe!" Chẳng biết 5 năm qua, sau lần gặp tôi, ông sống ra sao, đã được cấp sổ hay chết rồi vẫn còn ôm mối hận? Ngẫu nhiên tháng tư dương lịch hàng năm thường trùng hợp với dịp tết "Hàn thực" vào mồng 3 tháng 3 âm lịch. Người ta ăn đồ nguội như bánh trôi, bánh chay làm từ đêm trước để ngày tết không phải dùng đến ngọn lửa oan nghiệt từng thiêu đốt mẹ con Giới Tử Thôi thời chiến quốc. Trùng Nhĩ sau khi lên ngôi vua đã vô ơn, bạc đãi và hắt hủi các công thần khiến ông phải cõng mẹ trốn vào rừng ở ẩn. Vua sai người gọi không được bèn nghe lời nịnh thần, cho đốt rừng tất ông phải ra, nhưng ông cùng mẹ thà chết cháy chứ không chịu quay về nhìn mặt lũ bất nhân. Bởi thế, tết "Hàn thực" năm nay, ăn đĩa bánh trôi tôi lại nhớ tích xưa, ngậm ngùi thương ông Nguyễn Văn Bê, miên man suy ngẫm sự đời những năm hậu chiến.

 Có những con số người vô tâm thoạt nghe thấy dửng dưng, nhưng tôi thì không thể. Tài liệu thống kê gần đây cho tôi biết, 35 năm sau cuộc chiến, Việt Nam ta có: 3,2 triệu người định cư ở gần 100 quốc gia và vùng lãnh thổ; 500.000 người đi làm thuê ở 40 quốc gia; 250.000 người đi lấy chồng nước ngoài, chủ yếu ở Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc, Malaysia; 30.000 du học sinh ở châu Âu, châu Úc và Bắc Mỹ… Trong số 3,2 triệu người Việt định cư ở hải ngoại hiện nay, số ra đi trước ngày 30/4/1975, kể cả số di cư từ thời thuộc Pháp chỉ khoảng 1 triệu, số còn lại hơn 2 triệu người chủ yếu rời bỏ đất nước từ nửa cuối thập niên 70 và cả thập niên 80 của thế kỷ trước. Thế hệ chúng tôi "xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước", giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, sao những người được chúng tôi giải phóng lại ào ào bỏ nước mà đi đông đến vậy? Đất nước qua 24 năm đổi mới, ta vẫn tự hào về tốc độ tăng trưởng ngọan mục trong 12 năm liền (1996- 2007). Thế nhưng chất lượng tăng trưởng thì sao? Cánh kéo phân hóa giàu nghèo giãn ra tới mức chỉ một nhúm người đi xe triệu đô, cưỡi máy bay riêng, ngủ biệt thự sang trọng, trong khi có nửa triệu người đi làm thuê kiếm sống ở xứ người và 250 ngàn cô gái hơ hớ tuổi xuân phải lấy chồng ngoại để có tiền cứu đói hay trả nợ cho gia đình. Trong cộng đồng 3,2 triệu người Việt hải ngoại, tôi biết có khoảng 300 ngàn chuyên gia cấp đại học và trên đại học, phần lớn đều tha thiết mong có cơ hội phụng sự Tổ quốc. Đó là nguồn nhân lực tuyệt vời cho công cuộc phát triển, sao các nhà quản lý trong nước lại ghẻ lạnh, hờ hững với họ? Tôi có thời gian làm Thư ký tòa sọan cho tạp chí Thế giới vi tính (PC World VN), một tạp chí hàng đầu về CNTT nên hiểu khá rõ nội tình vụ việc ông Trương Trọng Thi- người Pháp gốc Việt, nhà phát minh thuộc tốp tiên phong của thế giới về máy tính cá nhân và công nghệ vi xử lý, ngay từ năm 1973 đã có nguyện vọng hợp tác đầu tư với Nhà nước ta về lĩnh vực này và bị ghẻ lạnh ra sao. Cố GS Trần Lưu Chương sinh thời có lần tâm sự với tôi: "Hãy tưởng tượng ở thời điểm năm 1973, lúc châu Á và cả thế giới còn đang ở buổi bình minh của cuộc cách mạng tin học, nếu ta ủng hộ Trương Trọng Thi lập xưởng chế tạo PC và tổ chức nghiên cứu công nghệ vi xử lý thì Ấn Độ và Trung Quốc chỉ có nước chạy theo bái ta làm sư phụ, chứ đâu như bây giờ ta thua họ 10 năm phát triển công nghiệp phần cứng và gia công phần mềm xuất khẩu." Lại nữa, con số 30,000 du học sinh, nghiên cứu sinh Việt Nam đang ở Tây Âu và Bắc Mỹ là nguồn chất xám trẻ vô cùng quý giá, sao 70- 80% trong số họ không muốn về nước, đâu chỉ vì đãi ngộ thấp mà còn vì điều kiện làm việc, cơ hội thăng tiến bị cơ chế dị mọ trong nước kìm hãm?...

 Có tiếng gà gáy sáng cất lên thao thiết, chơi vơi, lạ hóa giữa không gian khu đô thị mới, chất ngất các tòa nhà chung cư cao tầng. Ông lão hàng xóm cùng tầng 11 của tôi bảo, ông nuôi chú gà tre Nam Bộ làm cảnh, cho nguôi nỗi nhớ làng quê Đông Anh bị giải tỏa làm sân "gôn", bứng ông cùng bà lão răng đen, vấn khăn mỏ quạ ra nhập hàng ngũ cư dân đô thị mới. Tiếng gà làm tôi liên tưởng đến buổi tọa đàm "Kê minh thập sách- minh triết trị quốc an dân" tại Hội trường tầng 3, nhà số 53 Nguyễn Du- Hà Nội vừa diễn ra hôm 15/4/2010. Hơn 600 năm trước, bà Chế thắng phu nhân Nguyễn Thị Bích Châu đã dâng lên vua Trần Duệ Tông bản "Kê minh thập sách" gồm 10 điều phản biện và kiến nghị, hòng cứu đất nước ra khỏi khủng hoảng toàn diện về chính trị, quân sự, kinh tế. Mỗi lời của bà tới nay vẫn còn tươi rói màu xanh của cuộc sống, thiết thực với hiện tình đất nước, ngỡ như ta đang đọc một bản góp ý cho văn kiện Đại hội đảng CSVN lần thứ XI, ví dụ:

"…Ba, ngăn chặn lũ lộng quyền để phòng chính sự sâu mọt.

Bốn, thải loại bọn tham nhũng để trừ tệ đục khóet của dân.

Năm, xin chấn hưng văn hóa giáo dục khiến ánh đuốc rực cùng mặt trời chiếu khắp.

Sáu, xin cầu lời nói thẳng để cho cổng thành cùng đường ngôn luận rộng mở…"   

Tôi nhớ, trong buổi tọa đàm đó, khi anh GS Chu Hảo mời tôi lên phát biểu, tôi đã uống thuốc liều nêu ra hai ý hỏi lại các cử tọa cũng là hỏi chính lòng mình:

Một là bản "Kê minh thập sách" có 6 điều thuộc về minh triết trị quốc an dân ngắn gọn, khúc triết và 4 điều thuộc về binh pháp, đọc lên ngỡ như binh pháp Tôn Tử hay Binh thư yếu lược của Hưng Đạo đại vương vậy. Bà Nguyễn Thị Bích Châu chỉ là cung phi, mồ côi từ nhỏ, vào cung tự học mà tỏa sáng nên chăng coi đây là sự cô đúc trí tuệ của nhiều bậc thức giả dân gian vào trong văn bản lưu truyền cho hậu thế, thông qua sự phát ngôn của nhân vật lịch sử đã hóa thánh trong lòng dân ở các đền thờ miền quê Nghệ Tĩnh?

Hai là, phải chăng "Kê minh thập sách" tập hợp ý nguyện của dân chúng mà ra đời từ hệ quả tất yếu sau mấy chục năm chính sự suy đồi, vua tôi sa đọa? Thực tế lịch sử cho thấy nhà Trần sau hơn nửa thế kỷ lừng lẫy và 3 lần đánh thắng giặc Nguyên Mông, đến năm 1314 bắt đầu trượt dài trong sa đọa với sự lên ngôi của vua Trần Minh Tông. Ông vua này là con thứ, được vua cha cưng chiều đưa lên ngôi lúc mới 14 tuổi (SN 1300), chỉ ham ăn chơi, trác táng trong sự dung túng của thượng hoàng và sự o bế của lũ nịnh thần. Đến năm 1329, đang còn sung sức ở tuổi 29 Minh Tông đã vội lẩn tránh quốc sự, nhường ngôi cho vua Trần Hiến Tông mới lên 10 tuổi (SN 1319) để mình làm Thượng hoàng. Năm 1341, Hiến Tông chết lúc 22 tuổi, chưa kịp có con nên con thứ 10 của Minh Tông mới lên 5 tuổi (SN 1336) lên làm vua, hiệu là Trần Dụ Tông. Như vậy, từ năm 1314 đến 1369 là 55 năm triều đình mục nát, chính sự nhố nhăng như phường chèo nên năm 1369 một gã lưu manh Dương Nhật Lễ, con anh hề chèo gốc Hoa trong cung là Dương Khương cũng có thể cướp ngôi làm vua được 2 năm (1369- 1370). "Kê minh thập sách" dâng lên vua Trần Duệ Tông (1372- 1377), không được vua tiếp nhận nên năm 1400, nhà Trần mới mất về tay nhà Hồ, rồi cuối cùng nước cũng mất về tay giặc Minh ở phương Bắc.

Phải chăng khi một chính thể kéo dài sự mục nát suốt mấy chục năm, quyền bính lọt vào tay lũ lưu manh hạ đẳng, chính sự nhố nhăng như phường chèo, lại khước từ minh triết Việt trong "Kê minh thập sách" thì họa diệt vong là tất yếu?  

Bài học lịch sử "Kê minh thập sách" cuối thời nhà Trần, nay nhân ngày giỗ thứ 633 bà Chính thắng phu nhân Nguyễn Thị Bích Châu, tôi bồi hồi ngẫm lại vẫn thấy còn nguyên giá trị giữa bầu trời thủ đô tháng tư năm 2010…

 

Hà Nội 18/4/2010       

Monday, April 19, 2010

Bàn về nguồn gốc người Việt


Hỏi một người Việt bình thường về nguồn gốc dân tộc Việt Nam, câu trả lời mà người ta thường nghe là tổ tiên của chúng ta xuất phát từ Trung Quốc. Ngay cả người có kiến thức rộng, có quan tâm đến dân tộc và văn hóa Việt cũng có những ý kiến tương tự. Đào Duy Anh, trong Việt Nam Văn hóa Sử cương; và Trần Trọng Kim, trong Việt Nam sử lược, cũng từng cho rằng người Việt có nguồn gốc hoặc từ Trung Quốc [1] hay từ Tây Tạng [2], dù họ có chút dè dặt và thận trọng trong phát biểu.

Có lẽ cái quan điểm dân tộc Việt có nguồn gốc từ Trung Quốc đã ăn sâu vào tâm trí của chúng ta, nên văn minh Việt Nam cũng được nghiễm nhiên suy luận là bắt nguồn từ văn minh Trung Quốc. Quan điểm này phù hợp với sách vở của Trung Quốc. Chẳng hạn như trong Hậu Hán thư , các sử gia của Trung Quốc, với một giọng văn cực kì trịch thượng và kì thị chủng tộc, viết rằng tổ tiên ta ngày xưa giống như loài "cầm thú", xã hội thì chẳng có tôn ti trật tự gì cả, phải đợi đến khi hai quan thái thú của họ là Tích Quang và Khâm Diên dạy cho tổ tiên ta cách ăn mặc và cách trồng lúa. Sau đó các nhà sử học này thản nhiên kết luận: "Miền Lĩnh Nam theo phong hóa Trung Quốc là bắt đầu từ hai thái thú ấy" [3].

Điều thú vị là nhận xét này đã được giới có học của Việt Nam tiếp nhận và lấy làm một thứ kinh điển, một câu văn giáo khoa, mà không có một chất vấn tính trung thực, hay thách thức tính khoa học của nó. Tính dễ dãi chấp nhận sử liệu ngoại bang của giới có học ngừơi Việt đã vô tình gieo vào lòng nhiều người Việt một tâm lí tự ti, đánh giá thấp nền văn hóa Việt Nam khi so sánh với các nền văn hóa khác, như của Trung Hoa chẳng hạn.

Thực ra, chẳng riêng gì giới trí thức Việt Nam, ngay cả một phần lớn trong giới sử học Tây phương cũng từng quan niệm, hay nói đúng hơn là giả định, rằng các nền văn minh Đông Nam Á (kể cả của Việt Nam) chỉ là những chi nhánh của hai nền văn hóa lớn hơn: Trung Hoa và Ấn Độ. Giả định này đã được dùng như là một sử liệu, một thuyết đáng tin cậy để dạy học cho học sinh (trong đó có cả học sinh người Việt); và một cách vô tình, nó được lưu truyền hết thế hệ này sang thế hệ khác như là một sự thật! Bởi vì qua nhiều năm, chẳng ai chất vấn lý thuyết này, nên một cách nghiễm nhiên, nó được xem là một "thuyết chính thống."

Mãi đến thập niên 1960s, một số nhà khảo cổ học rất uy tín (phần lớn là Mĩ), dựa vào nhiều kết quả của một loạt nghiên cứu ở Việt Nam và Thái Lan, đã bắt đầu chất vấn sự chính xác và tính logic của thuyết chính thống trên đây [4]. Có thể nói họ là những "con cừu đen" trong giới tiền sử học, vì đã can đảm thách thức một quan điểm mà đại đa số đồng nghiệp đều mặc nhiên công nhận. Nhưng họ không phải là những người đơn độc. Gần đây, đã có một số nhà nghiên cứu từ Việt Nam, Thái Lan, và Nam Dương công bố nhiều dữ kiện khảo cổ học cho thấy rằng thuyết văn hóa Đông Nam Á xuất phát từ văn hóa Trung Hoa và Ấn Độ không còn đứng vững nữa.

Nhưng trong những nhà nghiên cứu chuyên môn này, chưa ai trình bày dữ kiện một cách có hệ thống và nghiên cứu một cách sâu xa bằng một nhà nghiên cứu "tài tử" là ông Stephen Oppenheimer trong cuốn sách "Eden in the East: The Drowned Continent of Southeast Asia" (tạm dịch là "Thiên đàng ở phương Đông: Lục địa chìm đắm của Đông Nam Á) [5]. Trong tác phẩm này, qua những dữ kiện dồi dào được thu thập một cách công phu từ nhiều ngành nghiên cứu khác nhau, Oppenheimer trực tiếp thách thức cái thuyết chính thống, và làm thay đổi những quan niệm về thời tiền sử mà chúng ta từng hiểu và từng được dạy. Đặc biệt, cuốn sách đặt trọng tâm vào việc thẩm định lại các quan điểm về văn minh vào thời tiền sử ở Đông Nam Á, tác giả cho rằng:

(a) Trận đại hồng thủy [6] được đề cập đến trong Kinh Thánh là có thật và xảy ra vào cuối thời đại Băng hà (Ice Age).

(b) Trận đại hồng thủy này xảy ra khoảng 8000 năm về trước làm chìm đắm lục địa Đông Nam Á, và làm cho dân chúng phải di tản đi các vùng đất khác để sống. Họ chính là những người gầy dựng nên nền văn hóa Tân Đồ Đá (Neolithic cultures) của Trung Quốc, Ấn Độ, Mesopotamia, Ai Cập và vùng đông Địa Trung hải, và do đó, họ là những người cha đẻ và vun đắp các nền văn minh vĩ đại ở phương Tây.

(c) Những dân tộc thuộc quần đảo Polynesian không phải xuất phát từ Trung Quốc, nhưng có nguồn gốc từ Đông Nam Á.

(d) Người Trung Quốc không phải là người sáng chế ra kĩ thuật trồng lúa. Khoảng 9,000 đến 10,000 năm về trước, một số dân thuộc vùng Đông Nam Á đã là những nhà canh nông chuyên nghiệp đầu tiên trên thế giới (chứ không chỉ sống bằng nghề săn bắn), họ đã phát triển kĩ thuật trồng khoai và qua đó làm một cuộc cách mạng nông nghiệp.

Nói một cách khác cho rõ ràng hơn, qua công trình nghiên cứu này, Oppenheimer đề xuất một thuyết cho rằng Đông Nam Á là cái nôi của văn minh nhân loại ngày nay. Thuyết này thể hiện một thách thức rất lớn đến các tri thức về thời tiền sử đã và đang được lưu truyền trong giới khoa bảng. Và do đó, Oppenheimer đã, lần đầu tiên, đặt vùng Đông Nam Á vào vị trí xứng đáng của một vùng đất thường bị lãng quên bên cạnh hai nền văn minh lớn là Trung Hoa và Ấn Độ.

Theo thuyết của Oppenheimer thì người Trung Quốc và Ấn Độ ngày nay có gốc gác từ Đông Nam Á, chứ không phải nguồn gốc của người Đông Nam Á là ở Trung Quốc hay Ấn Độ. Đây cũng là một đảo vòng xoay 180 độ về nguồn gốc dân tộc Việt Nam. Mà, xem ra thuyết của Oppenheimer có nhiều "đồng minh." Một số học giả khác (như M. Colani, J. Hornell, P. van Stein, H. Geldern, B, Karlgren, NJ Krom) cũng cho rằng làn sóng người từ Bắc Việt tràn xuống phía Nam và vào Ấn Độ trước khi vùng này bị giống dân Aryan xâm chiếm. Giáo sư Solheim II căn cứ trên những dữ kiện khảo cổ thì thấy rằng giống người Hoà Bình tràn lan xuống phía nam, lên hướng bắc, và sang hướng tây. Tại mỗi nơi, người Hòa Bình phối hợp với dân địa phương để tạo thành các chủng tộc mới của mỗi vùng.

Thuyết của Oppenheimer có cơ sở khoa học. Sau khi cuốn sách Eden in the East xuất bản, một loạt nghiên cứu di truyền học cung cấp nhiều bằng chứng quí báu về hành trình của con người. Tưởng cần nhắc lại rằng trong quá khứ người ta thường tập trung vào nghiên cứu các đặc tính nhân trắc và ngôn ngữ để xác định nguồn gốc con người, và xu hướng này làm xao lãng các dữ kiện có thể cho chúng ta nhiều thông tin hơn: đó là gien. Không giống như xương sọ, những thay đổi trong gien thường xảy ra theo những qui luật mà chúng ta hiểu khá rõ, và vì thế gien và các đặc điểm của gien, như tầng số gien, cấu trúc DNA, phân phối gien, v.v... cho chúng ta những thông tin cực kì quí giá về sự tiến hóa của con người. Ngày nay, những tiến bộ phi thường trong ngành di truyền học và sinh học phân tử (molecular biology) trong mấy năm gần đây đã cung cấp cho ngành nhân chủng học một phương tiện cực kì quan trọng trong việc xác định lịch sử tiến hóa của con người và mối liên hệ giữa các dân tộc.

Giá trị của di truyền học trong việc truy tầm nguồn gốc dân tộc đã được đánh giá cao về mức độ tin cậy. Di truyền học là một cửa sổ để chúng ta nhìn lại quá khứ của chúng ta. Tuy nhiên, những nghiên cứu về di truyền học trong người Việt còn cực kì khiêm tốn, nếu không muốn nói là không đáng kể. Trong thời gian khoảng 10 năm trở lại đây, đã có một số bằng chứng, tuy gián tiếp, nhưng cũng đủ để chúng ta có lí do để xem xét lại lịch sử tiến hóa của dân tộc Việt. Những bằng chứng này là:

(a) Năm 1998, Giáo sư Chu và đồng nghiệp (thuộc Trường Đại học Texas) [7] phân tích 15 đến 30 mẫu "vi vệ tinh" DNA (microsatellites) để thử nghiệm sự khác biệt di truyền trong 24 nhóm dân từ nhiều tỉnh khác nhau ở Trung Quốc, 4 nhóm dân vùng Đông Nam Á (hai thuộc thổ dân Mĩ, một thuộc thổ dân Úc châu, và một thuộc Tân Guinea), 4 nhóm dân da trắng (Caucasian), và 3 nhóm dân Phi châu. Bằng một phương pháp phân tích thống kê có tên là "phân tích phát sinh chủùng loại" (Phylogenetic analysis)", một số kết quả đáng ghi nhận như sau:

(i) hai nhóm dân có sự khác biệt rõ ràng nhất là Phi châu và các dân không thuộc Phi châu;

(ii) tất cả các nhóm dân Đông Nam Á "tập hợp" thành một nhóm, và nhóm dân có đặc tính di truyền gần họ nhất là người thổ dân Mĩ châu, kế đến là thổ dân Úc châu, và Tân Guinea (Những kết quả này cũng phù hợp với thời gian định cư ở Úc châu (khoảng 60,000 đến 50,000 năm trước đây, và thời gian định cư ở Mĩ châu (từ 30,000 đến 15,000 năm trước đây);

(iii) các nhóm dân miền nam Trung Quốc phân phối thành ba nhóm, gọi là S1, S2, và S3 (ngoại trừ nhóm S2 là người Hán từ tỉnh Henan, phần còn lại (S1 và S3) gồm các sắc dân trong vùng Yunnan); và

(iv) các sắc dân miền bắc Trung Quốc phân phối thành hai nhóm, gọi là N1 và N2. Nhóm N1 gồm 6 sắc dân nói tiếng Altaic, một nhóm Hán tộc miền bắc từ tỉnh Yunnan. Nhóm N2 gồm 4 sắc tộc thiểu số có lịch sử sinh sống lâu đời ở miền bắc, trong đó có một sắc tộc từ tỉnh Ninxia.

Từ những phát hiện trên, một số mô hình có thể đặt ra để giải thích, nhưng mô hình thích hợp với dữ kiện của Giáo sư Chu và đồng nghiệp là các dân tộc miền Bắc Á được tiến hóa từ các dân tộc Đông Nam Á châu. Các dữ kiện liên quan đến răng, sọ [8-9] cũng nhất quán với mô hình này. Do đó, Giáo sư Chu và đồng nghiệp kết luận rằng: "Tổ tiên của các nhóm dân Đông Á ngày nay có nguồn gốc từ Đông Nam Á." Nói một cách khác, các dữ kiện di truyền học của Giáo sư Chu và đồng nghiệp cho thấy tổ tiên của những người nói tiếng Altaic từ Đông Á đã di cư vào Á châu từ ngã Đông Nam chứ không phải từ ngả Trung Á.

(b) Nhưng nghiên cứu của Giáo sư Chu và đồng nghiệp có một điểm yếu, đó là họ dựa vào vi vệ tinh DNA, một chất liệu di truyền rất "nhạy" (sensitive) và dễ bị đột biến (mutation). Để khắc phục nhược điểm này, một nhóm nghiên cứu khác đã tiến hành một nghiên cứu độc lập và qui mô hơn để xác định nguồn gốc Đông Nam Á của dân tộc Trung Hoa. Nhóm nghiên cứu Mĩ – Trung Quốc phân tích DNA trong nhiễm sắc thể Y trong các nhóm dân Hán (thuộc 22 tỉnh của Trung Quốc), 3 nhóm dân Đông Bắc Á (Buryat, Đại Hàn, và Nhật Bản), 5 nhóm dân Đông Nam Á (Cambốt, Thái Lan, Mã Lai, Batak, và Java), và 12 nhóm dân ngoài Á châu (3 nhóm từ Phi châu, 3 từ Mĩ châu, 2 từ Âu châu, và 4 từ châu Đại dương). Các nhà nghiên cứu ghi nhận rằng mức độ biến thiên đa hình thái (polymorphic variation) trong các nhóm dân Đông Nam Á cao hơn trong các nhóm dân thuộc vùng Bắc Á. Điều này có nghĩa là các sắc dân ở Đông Nam Á có một quá trình định cư lâu dài hơn là các nhóm dân Bắc Á. Dùng các phương pháp phân tích di truyền quần thể (population genetics), các nhà nghiên cứu kết luận rằng con người thời đó đã di cư từ Phi châu sang đến Đông Nam Á [10] vào khoảng 60 ngàn năm về trước, và sau đó đã di chuyển lên phía Bắc Á (kể cả Trung Quốc ngày nay) và Siberia [11]. Ngoài ra, còn có bằng chứng di truyền cho thấy các nhóm dân Polynesians cũng có nguồn gốc từ Đông Nam Á [12].

(c) Trong một nghiên cứu trên 103 người ở Hà Nội [13], các nhà nghiên cứu Việt – Pháp phân tích DNA trong hai gien (HLA-DR và DQB1), và so sánh kết quả này với các sắc dân thuộc châu Đại Dương (Oceania) và Đông Á. Sau khi ước tính khoảng cách di truyền [14] giữa các sắc dân, các nhà nghiên cứu kết luận rằng cấu trúc di truyền của hai gien này trong người Việt gần với người Thái và người Hoa. Các nhà nghiên cứu này kết luận rằng dữ kiện của họ phù hợp với giả thuyết người Việt có nguồn gốc từ người Trung Hoa và Thái-Nam Dương.

Tuy nhiên, sau khi xem xét kĩ phần phương pháp nghiên cứu, tôi có lí do để cho rằng kết luận này rất có thể không đúng. Những lí do này là: Thứ nhất, nghiên cứu này chỉ dựa vào hai gien mà thôi (con người có khoảng 35 đến 39 ngàn gien), và với những yếu điểm của mtDNA, các ước đoán về khoảng cách di truyền không ổn định. Thứ hai, ngay cả trong bài báo các nhà nghiên cứu không xây dựng được một cây di truyền nào, và cũng chẳng phân tích phát sinh chủùng loại thì không thể phán đoán về chiều hướng di cư hay nguồn gốc dân tộc được.

(d) Khoảng 2 năm sau, các nhà nghiên cứu này lại tiến hành một nghiên cứu khác trên 50 người cũng ở Hà Nội [15], và cũng qua dùng kĩ thuật PCR (polymerase chain reaction) họ phân tích 6 "restriction enzymes", và ghi nhận khoảng cách di truyền giữa người Việt và người Hoa rất thấp (chỉ 0.0022), nhưng giữa người Việt và Ấn Độ thì tương đối cao hơn (0.0468), có nghĩa là quan hệ giữa giống người Việt và Hoa gần nhau hơn so với quan hệ Việt và Ấn.

Nghiên cứu này cũng có những yếu điểm như nghiên cứu trình bày phần (c), tức là số lượng gien quá ít (trong trường hợp này chỉ có một gien), và tác giả cũng không tính toán mức độ biến thiên của chỉ số khoảng cách di truyền, nên không thể nào phát biểu khoảng cách giữa Việt – Hoa gần hơn khoảng cách giữa Việt – Ấn. Thực ra, sau khi tính toán lại, tôi thấy hai khoảng cách di truyền (Việt – Hoa và Việt – Ấn) không có sự khác biệt đáng kể (non-significant)!

(e) Tuy nhiên, một nghiên cứu khác trên 5 gien trong nhiễm sắc thể Y trong hai nhóm dân: Bắc Á (Bắc Trung Quốc, Nhật, Hàn Quốc, và Mông Cổ), và Nam Á (Nam Dương, Phi Luật Tân, Thái, và Việt Nam) cho thấy người Việt gần với các nhóm dân Bắc Á (nhất là Hàn Quốc) hơn là các nhóm dân Nam Á [16]! Chúng ta biết rằng, qua nghiên cứu của Giáo sư Chu, người Hoa phía Bắc Trung Quốc có cấu trúc di truyền khác với người Hoa phía Nam Trung Quốc. Do đó, phát hiện này quả rất khó giải thích. Càng khó giải thích hơn nữa khi phần lớn những người Việt trong nghiên cứu này là cư dân ở Hà Nội, tức gần miền Nam Trung Quốc.

(f) Trong một nghiên cứu dùng mtDNA, Ballinger và đồng nghiệp [17] ghi nhận rằng chỉ số biến thiên (trong di truyền học gọi là F-value) trong người Việt cao nhất trong các sắc dân vùng Đông Nam Á. Tuy nhiên, các tác giả kết luận một cách mơ hồ rằng các dữ kiện này cho thấy "người Á châu có nguồn gốc từ nhóm dân Nam Mông" (nguyên văn: "The greatest mtDNA diversity and the highest frequency of mtDNA with HpaI/HincII morph 1 were observed in the Vietnamese suggesting a Southern Mongoloid origin of Asians"). Thực ra, các dữ kiện mà tác giả trình bày không cho phép họ kết luận như thế, bởi vì họ chỉ 7 nhóm dân Á châu mà thôi, và cũng chỉ nghiên cứu trên vài mẫu gien rất nhỏ. Nhưng qua số liệu của các nhà nghiên cứu này, chúng ta có thể phát biểu rằng trong hai gien mà họ nghiên cứu, người Việt có lẽ là một sắc dân cổ nhất trong vùng Đông Nam Á.

Qua các nghiên cứu di truyền dựa vào nhiễm sắc thể Y và mtDNA mà tôi vừa tóm lược và nhận xét cho chúng ta thấy rằng các nhóm dân Đông Á có cùng một nguồn gốc chung: đó là tất cả đều xuất phát từ Phi châu. Cũng dựa theo các dữ kiện mới này, các nhà nghiên cứu ước đoán rằng đợt người đầu tiên di cư đến Đông Nam Á xảy ra vào khoảng 18.000 đến 60.000 năm trước đây, và sau đó từ đây một đợt di cư về phía Bắc. Một đợt khác cũng từ Đông Nam Á di cư sang các quần đảo Thái Bình Dương qua ngả Mã Lai Á ngày nay. Tất nhiên, đây chỉ là "câu chuyện" mới được phát họa, nhiều chi tiết vẫn còn trong vòng nghiên cứu thêm.

Các kết quả của các nghiên cứu này đã cung cấp thông tin cho chúng ta để phát biểu một giả thuyết mới, rằng người Hoa ngày nay, nhất là người Hoa ở phía Nam Trung Quốc, có thể xuất phát từ Đông Nam Á; và có bằng chứng [tuy chưa đầy đủ] cho thấy người Việt có thể là một dân tộc cổ nhất trong vùng Đông Nam Á; cho nên có thể người Việt cũng có thể chính là tổ tiên của người Hoa ngày nay, nhất là các sắc dân ở miền Nam Trung Quốc. Cố nhiên, đó chỉ là một giả thuyết cần được thử nghiệm.

Nguồn gốc con người hiện đại, mà đặc biệt là nguồn gốc dân tộc Việt, là một câu hỏi đơn giản, nhưng câu trả lời thì không đơn giản chút nào. Tổ tiên chúng ta xuất phát từ đâu, họ đến Việt Nam bằng cách nào, vẫn còn là những vấn đề khoa học "nóng", đòi hỏi nhiều nghiên cứu về di truyền học, khảo cổ học, và ngôn ngữ học. Tuy nhiên, với sự tiến bộ phi thường về khoa học di truyền và công nghệ sinh học trong khoảng mười năm qua, chúng tôi tin rằng việc nghiên cứu quá trình lịch sử di truyền của người Việt chúng ta sẽ đem lại nhiều kết quả thích thú và làm sáng tỏ hơn về nguồn gốc tổ tiên của chúng ta. Chúng tôi đang làm việc này và hi vọng sẽ có dịp trình bày kết quả nay mai.

NVT

Chú thích:

1. Trong Việt Nam Văn hóa Sử cương (Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh tái bản năm 1992), ở trang 24-25, Đào Duy Anh viết: "Nay ta hãy căn cứ vào sự nghiên cứu của các nhà sử học, nhất là các vị giáo sư ở trường Viễn Đông bác cổ, mà xem gốc tích của dân tộc ta như thế nào. Có người cho rằng tổ tiên ta phát xuất từ Tây Tạng, sau theo lưu vực sông Nhị mà di cư xuống miền trung châu Bắc Việt. Nhưng theo ông Aurousseau dẫn chứng có điều rất kỹ càng thì tổ tiên ta lại là người nước Việt ở miền hạ lưu sông Dương Tử, sau bị nước Sở (đời Xuân thu) đánh đuổi phải chạy xuống miền nam ở miền Quảng Đông, Quảng Tây, rồi lần lần đến Bắc Việt và phía Bắc Trung Việt. Theo nhiều nhà nhân chủng học hiện thời thì ở thời thượng cổ, giống người Indonesian bị giống Aryan đuổi ở Ấn Độ mà tràn sang bán đảo Ấn Độ Chi-na, làm tiêu diệt giống người thổ trước đầu tiên ở đây là giống Melanesian rồi một phần trong đám di dân ấy đi thẳng mãi sang Nam Dương quần đảo, còn một phần ở lại Ấn Độ Chi-na, ở phía nam thành người Chiêm Thành và Cao Man sau đồng hóa theo văn hóa Ấn Độ, ở phía bắc thì hỗn hợp với giống Mông Cổ ở Trung Hoa xuống mà thành người Việt Nam."

2. Trong Việt Nam Sử Lược (Trung tâm Học liệu Bộ Giáo dục xuất bản, Sàigòn, 1971), ở trang 5, Trần Trọng Kim viết: "Theo ý kiến những nhà kê cứu của nước Pháp, thì người Việt Nam và người Thái đều ở miền núi Tây Tạng xuống. Người Việt Nam theo sông Hồng Hà lần xuống phía Đông nam, lập ra nước Việt Nam ta bây giờ; còn người Thái thì họ theo sông Mê-kông xuống, lập ra nước Tiêm la (tức là Thái Lan) và các nước Lào. Lại có nhiều người Tàu và người Việt Nam nói rằng nguyên khi xưa đất nước Tàu có giống Tam Miêu ở, sau giống Hán tộc (tức người Tàu bây giờ) ở phía Tây Bắc đến đánh đuổi người Tam Miêu đi, chiếm giữ lấy vùng sông Hoàng Hà lập ra nước Tàu, rồi dần dần xuống phía nam, người Tam Miêu phải lẩn núp vào rừng hay là xuống ở miền Việt Nam ta bây giờ. Những ý kiến ấy là theo lý mà suy ra đó thôi, chứ cũng chưa có cái gì làm chứng cho đích xác. Chỉ biết rằng người Việt Nam ta trước có hai ngón chân cái giao lại với nhau, cho nên Tàu mới gọi ta là Giao Chỉ; mà xem các loài khác, không có loài nào như vậy, thì tất ta là một loài riêng, chứ không phải là loài Tam Miêu."

3. Sách Hậu Hán thư (tức sử của Trung Quốc) chép: "Phàm đất thuộc bộ Giao Chỉ, tuy đã đặt quận, huyện, nhập vào lãnh thổ Trung Quốc, nhưng ngôn ngữ vẫn khác nhau, phải có thông ngôn mới hiểu. Người như cầm thú, không phân biệt trưởng ấu (tức không có tôn ti trật tự), búi tóc ở gáy, đi chân không, lấy vải quấn qua đầu làm áo. Sau đó những người tội phạm Trung Quốc đến ở lẫn với họ, mới biết ngôn ngữ dần dần thấy hóa theo lễ. Đến thời Quang Vũ Trung Hung, Tích Quang làm thái thú Giao Chỉ, Nhâm Diên làm thái thú Cử Chân, bấy giờ mới dạy cho dân biết cày cấy, biết đội mũ đi giày, đặt mối lái, dân mới biết hôn nhân, dựng học hiệu dạy lễ nghĩa …"

4. Về các bài báo khoa học mang tính tiền phong trong ngành khảo cổ học ở Đông Nam Á, xin xem những bài sau đây: (i) "On the improbability of Austronesian origins in South China," của Giáo sư William Meacham, đăng trong Tạp san Asian Perspectives, quyển 25, năm 1984-5; (ii) "The nusantao and North-South dispersals," của Giáo sư Wilhelm G. Solheim II, in trong "Indo-Pacific Prehistory Association Bulletin," quyển 2, năm 1996; (iii) "Southeast Asia and Korea: from the beginings of food production to the first states," cũng của Giáo sư Solheim II, in trong "The History of Humanity: scientific and cultural development," quyển I: "Prehistory and the Beginning of Civilization," do UNESCO/Routledge (London) xuất bản năm 1994.

5. Sách "Eden in the East: the Drowned Continent of Southeast Asia," của Stephen Oppenheimer, Nhà xuất bản Phoenix (London), 1998. Sách khổ 13 x 20 cm, dày 560 trang, kể cả 47 trang tài liệu tham khảo và 28 trang bảng danh mục, chữ loại nhỏ (Times cỡ 8). Giá đề 15 đô-la Canada, hoặc 9 sterling Anh.

6. Theo sách Genesis, và theo truyền thuyết của nhiều nền văn minh cổ, ngày xưa có xảy ra một số trận lụt vĩ đại (hay đại hồng thủy) phủ ngập cả trái đất. Huyền thoại về lụt nổi tiếng nhất là câu chuyện về Noah, một giáo trưởng, được của Thượng đế, xây dựng một chiếc thuyền lớn tên là Ark để gia đình ông ta và mọi sinh vật có thể sống sót qua cơn lụt.

7. Xem bài "Genetic relationship of populations in China," tác giả J. Y. Chu và đồng nghiệp, Tập san Proceedings of the National Academy of Science (USA) 1998; số 95, trang 11763-11768.

8. Xem bài "Major features of Sundadonty and Sinodonty, including suggestions about East Asian microevolution, population history, and late Pleistocene relationships with Australian aboriginals", C. G. Turner, Tập san American Journal of Physical Anthropology, năm1990; bộ 82, trang 295-317.

9. Xem bài "Population prehistory of east Asia and the Pacific as viewed from craniofacial morphology: the basic populations in east Asia, VII" T. Hanihara, American Journal of Physical Anthropology, năm1990, năm 1993, bộ 91, trang 173-87.

10. Xem bài "African origin of modern humans in East Asia: a tale of 12000 Y chromosomes," tác giả Yuehai Ke và đồng nghiệp, [Tập san] Science, năm 2001, bộ 292, trang 1151-1153.

11. Xem bài "Y-chromosome evidence for a northward migration of modern humans into eastern Asia during the last Ice Age," tác giả Bing Su và đồng nghiệp, [Tập san] American Journal of Human Genetics, năm 1999, bộ 65, trang 1718-1724.

12. Xem bài báo khoa học "Polynesian origins: insights from the Y chromosome," tác giả Bing Su và đồng nghiệp, Tập san Proceedings of the National Academy of Science (USA), năm 2000, bộ 97, trang 8225-8228.

13. Xem bài "HLA-DR and DQB1 DNA polymorphisms in a Vietnamese Kinh population in Ha Noi", tác giả A. Vu-Trieu và đồng nghiệp, Tập san European Journal of Immunogenetics, năm 1997, bộ 24, trang 345-356.

14. Khoảng cách di truyền (hay còn gọi là genetic distance) là một thông số di truyền học đo lường mức độ khác nhau giữa các nhóm dân. Chỉ số này có giá trị tối thiểu là 0 (tức hai nhóm dân giống nhau về mặt di truyền), và giá trị tối đa là 1 (tức hai nhóm dân hoàn toàn khác nhau).

15. Xem bài "Mitochondrial DNA polymorphism in the Vietnamese population", tác giả R. Ivanova và đồng nghiệp, Tập san European Journal of Immunogenetics, năm 1999, bộ 26, trang 417-422.

16. Xem bài "Y chromosomal DNA variation in East Asian populations and its potential for inferring the peopling of Korea", tác giả W. Kim và đồng nghiệp, Tập san Journal of Human Genetics, năm 2000; bộ 45, trang 76-83.

17. Xem bài "Southeast Asian mitochondrialDNA analysis reveals genetic continuity of ancient Mongoloid migration," tác giả S. W. Ballinger và đồng nghiệp, Tập san Genetics, năm 1992, bộ 130, trang 139-45.

18. Solheim II WG. New light on a forgotten past. National Geographic, 1971;139:number 3. Trích đoạn, "Theo truyền thống, người ta cho rằng trong thời kỳ tiền sử, kỹ thuật miền Đông Nam Á là kết quả của những làn sóng di dân từ phương Bắc mang đến. Riêng tôi cho rằng văn hóa nguyên thủy thời đồ đá mới Ngưỡng Thiều (Yangshao) ở Trung Quốc mà người ta biết đến chính là kết quả của một nền văn hóa tiền Hòa Bình đã di chuyển từ miền bắc Đông Nam Á lên phía bắc vào khoảng 6000 hay 7000 năm trước Công nguyên." và […] "Văn hóa Long sơn (Lungshan) vẫn được xem là phát triển từ Ngưỡng Thiều, […] thực ra là đã [được] khai sinh ở Nam Trung Quốc và di chuyển lên phía Bắc. Cả hai nền văn hóa này đều bắt nguồn từ gốc văn hóa Hòa Bình."

Wednesday, April 14, 2010

Mẹo vặt tề gia nội trợ

Cách cán bột không bị dính Lúc nhào bột, cán bột để làm bánh, bột hay bị dính vào bàn rất khó chịu. Khi ấy ngoài cách rắc một lớp bột áo trên bàn, bạn có thể làm theo cách sau: để bột vào trong một cái tô, đậy một lớp nylon kín rồi cho vào tủ lạnh khoảng 1 giờ.
Lúc cán bột làm bánh bột sẽ không bị dính nữa.

Cách xào thịt bò Khi xào thịt bò muốn cho thịt mềm, sau khi ướp thịt xong, bạn hãy cho 2-3 muỗng cà phê dầu ăn vào trộn đều ướp cùng, để khoảng 20-30 phút. Lúc xào thịt hãy để lửa to đảo nhanh tay. Xào xong cho thịt ra khỏi chảo ngay. Món thịt bò xào sẽ rất mềm, vị đậm đà mà lại không dai.

Luộc trứng không bị vỡ nứt Khi luộc trứng gà, trứng vịt thường hay bị nứt vỏ làm cho nước vào trong trứng gây ra mùi tanh và không đẹp. Muốn chúng không bị nứt khi luộc bạn chỉ cần cho muối vào luộc. Trứng sẽ chín ngon và không bị nứt và dễ bóc vỏ.

Rửa sạch bình thủy tinh Những bình thủy tinh có miệng bé muốn rửa sạch bên trong rất khó. Xin mách bạn một cách để làm cho bình thủy tinh sáng bóng như mới. Bạn hãy cho vào bình một nắm gạo, đổ một ít nước sôi vào đậy nắp kín đóng lại và lắc mạnh. Sau vài lần, bình thủy tinh của bạn sẽ sạch bóng dễ dàng.

Dầu ăn trong nồi bốc lửa Khi bạn xào nấu với ngọn lửa to có lúc dầu ăn trong nồi bị bốc lửa. Chỉ cần đậy vung lại hoặc đắp khăn ướt lên, lửa sẽ lập tức bị dập tắt. Trong trường hợp đó, không nên cho nước vào dầu ăn nhẹ hơn nước sẽ làm lửa bùng to hơn và dầu bắn ra bốn phía.
Cách vắt chanh được nhiều nước Muốn vắt được nhiều nước chanh hơn thì trước khi vắt, bạn hãy đem chanh ngâm vào nước nóng vài phút.
Cách khử cay ở tay Khi bạn cắt tỉa ớt, tay bị dính sẽ rất nóng, cay. Bạn hãy khử bằng cách: Lấy một ít đường cát xoa vào tay, rồi rửa sạch; hoặc xoa vào tay một ít giấm hay rượu; bạn cũng có thể ngâm tay vào nước ấm một lát rồi rửa sạch thì tay sẽ không bị cay, nóng nữa.

Cách làm chuối xanh không bị nát và thâm Khi làm món ăn với chuối xanh, bạn gọt vỏ, bổ thành miếng nhỏ, rồi ngâm vào nước có pha chanh và muối, chuối sẽ trắng, không bị nhựa, không nát mà chất chát cũng giảm rất nhiều.
Cách chữa cơm sống Khi bỏ cơm ra ăn mà cơm bị sống, nhiều người đổ thêm nước vào nồi và bắc lên bếp hong lại cho đến khi chín hoặc bỏ đi. Để tránh lãng phí và mất thời gian nhưng lại hiệu quả và đơn giản, bạn hãy làm theo cách sau: Xới cơm sống cho tơi ra, rưới rượu vào nồi theo tỷ lệ cứ nửa cân gạo là một phần ba chén rượu. Đun nhỏ lửa cho đến khi rượu bốc hơi hết, cơm sẽ chín mà lại không để lại mùi rượu.
Làm Ruột Heo, Bao Tử Heo Ruột hoặc bao tử heo mua về lộn trái ra rồi cho một nắm bột mì vào bóp kỹ một lúc sau đó rửa lại nhiều lần bằng nước lạnh sẽ sạch hết.
Muốn luộc ruột hoặc bao tử cho trắng thì đung một nồi nước sôi, sau đó cho vào một miếng phèn chua độ nửa ngón tay, cho lòng heo vào luộc, nhớ để nước cho ngập. Khi lòng heo đã chín, vớt ra thả vào nước lạnh có pha một chút hàn the.
Cách Làm Lươn Lươn mua về còn sống cho vào soong hoặc thau, lấy rổ đậy kín rồi cho vào một chén giấm chua. Lươn sẽ quẫy rất mạnh vì vậy bao nhiêu nhớt sẽ theo ra hết. Khi thấy lươn yếu dần, không còn quẫy nữa thì đem ra vuốt bằng muối rồi rửa lại bằng nước lạnh vài lần sẽ sạch.

Cách Làm Ốc Muốn làm ốc sạch để làm ốc nhồi thì đừng đập bể trôn ốc vì khi đập bể trôn ốc, khi nhồi ốc vào hấp, nước ngọt sẽ chảy ra hết.
Lấy dao nhỏ khẽ cạy miệng ốc ra, rồi lấy một chiếc đũa đẩy ốc thụt vào trong một lúc, cầm con ốc vẩy mạnh. Ốc sẽ rơi ra hết. Bỏ phần ốc bùn phía cuối. Phần ốc còn lại, cho vào giấm bóp kỹ rồi rửa lại bằng nước lạnh cho sạch.

Cách Làm Cá Cá bán ở chợ thường chưa được đánh vẩy. Muốn làm cá mà không bị vẩy văng ra tứ phía, hãy ngâm cá vào nước sôi thì việc đánh cá sẽ dễ dàng.

Chiên Cá Khi chiên cá, muốn không bị sát chảo, hãy lăn cá vào bột trước khi cho vào chảo dầu nóng.
Nướng Cá Không Bị Tróc Da Thoa một lớp dầu ăn ngoài da để da cá không bị dính vào vỉ nướng. Khi nướng, lúc đầu để lửa lớn để lớp da bên ngoài se lại ngay, như vậy sức nóng làm cho chất mỡ trong cá tan ra nhưng không thoát ra ngoài được. Do đó da cá sẽ vàng mà thịt cá vẫn thơm ngon và không bị mất đi các dưỡng chất.

Nướng Bánh Mì Lại Cho Dòn Bánh mì cũ, nhúng vào nước trước khi nướng, bánh sẽ dòn.

Chiên Khoai Tây Khoai tây ngâm trong nước có pha một chút muối và chanh hoặc giấm để khoai được trắng. Rửa sạch khoai lại rồi thái khoai thành từng lát dày độ 1 cm theo chiều dọc của củ khoai. Vớt khoai để ráo, lau khô từng miếng. Sau đó phết sơ một lớp dầu lên khoai để khi chiên, mặt khoai không bị nhăn.
Cho khoai vào chảo dầu chiên cho vàng. Khi chiên, khoai sẽ phông lên, lấy khoai ra cho vào rổ nhôm, rắc lên một chút muối và xốc đều.
Giữ Khoai Không Rã Khi Nấu
Rửa khoai thật sạch trước khi gọt vỏ. Gọt vỏ xong, đem ngâm trong nước có pha một chút muối để khoai không bị đen và khi nấu khoai không bị rã.
Khử Mùi Hôi Của Dầu Phộng
Đun dầu cho thật sôi đến khi không còn nghe thấy tiếng kêu riu riu nữa. Cho vào vài củ hành tím đập dập. (Có thể dùng tỏi hay củ xả đập dập hoặc lá dứa thơm cũng được).
Khử Mùi Hôi Của Thịt Bò Nướng chín một củ gừng, cạo bỏ lớp vỏ cháy đen, giã gừng thật nhuyễn, rắc lên thịt.
Tẩy Mùi Hôi Lông Của Gà, Vịt
Khi nhổ lông xong, dùng muối hoặc gừng giã nhuyễn chà xát lên mình con vịt hoặc gà, để độ 5 phút, rửa sạch lại rồi mới mổ ruột.
Tẩy Mùi Xào Nấu, Mùi Thịt Cá Đốt một miếng đường lên bếp. Trong khi chờ cá chín, mùi đường cháy sẽ phá tan mùi tanh của cá. Để cho mùi hôi của bắp cải chín mất đi, hãy cho vào soong đang luộc rau một miếng ruột bánh mì.
Chậu rửa bát vừa ăn xong, dùng vỏ chanh đã vắt nước chà xát chung quanh chậu, mùi tanh của cá sẽ hết.

Tẩy Một Số Mùi Khó Bay Mùi hành tỏi: Dùng bã café để chà xát.

Mùi Eau de Javel: Lấy giấm rửa tay, rửa lại bằng nước ấm và thoa lại bằng một chút dầu thơm.

Vết vàng khói thuốc dính trên ngón tay: Rửa tay bằng Eau de Javel hơi ấm.

Vết bút nguyên tử: Dùng Alcool.
Các vết xám đen: Dùng chanh.

Luộc Rau Xanh Màu

Cho vào soong nước luộc vài giọt chanh hoặc giấm, đợi nước thật sôi mới cho rau vào.

Nấu Nước Dùng Cho Trong Nấu nước thật sôi mới cho thịt hoặc xương vào, không được đậy vung soong. Khi nước sôi lại thì bớt lửa và vớt bọt thường xuyên. Cho vào đó một củ hành tím đã nướng chín.
Nếu lỡ nước không trong thì dùng một khăn vải mỏng sạch lược lại, cho sang soong khác nấu sôi trở lại. Lấy một tròng trắng trứng đánh cho thật nổi đổ úp vào soong nước dùng, các bọt trong nước dùng sẽ cuốn vào trong lòng trắng trứng. Khi được, vớt tròng trắng trứng ra bỏ.
Nếu nấu nước thật sôi rồi bỏ thịt hoặc xương vào, như vậy thì chất ngọt còn giữ lại trong thịt, xương. Nếu cho thịt vào nước lạnh rồi mới nấu thì chất ngọt của thịt và xương sẽ hoà vào nước dùng.
Đánh Trứng Gà Không Dính Vào Tô Trước khi đánh trứng vào tô, hãy tráng qua tô một lớp nước lã.
Muốn Trứng Chiên Được Nổi Phồng
Cho vào trứng một chút bột nổi rồi đánh trứng cho đều, nhớ đánh theo một chiều.
Quết Tôm Cho Dai Rửa tôm sạch, lau khô tôm trước khi quết. Khi tôm đã được quết nhuyễn thì nêm gia vị và cho vào một tròng trắng trứng, trộn đều và quết thêm một lúc cho tôm và trứng lẫn đều nhau.
Tẩy Mùi Cơm Khê Nếu cơm lỡ bị khê, ta nên cho vào cơm một cục than đang cháy hồng hoặc lấy một cái ca nhôm, nhúng nước rồi úp lên soong cơm.
Hấp Cơm Nguội Cho Ngon Cơm nguội còn lại, không bị hư, muốn hấp lại, phải dùng tay ướt bóp cho hột cơm rời ra. Khi soong cơm mới nấu gần chín mới cho cơm nguội vào hấp (cơm nguội để hấp phải ít hơn lượng gại để nấu cơm).
Hấp được một lúc thì xới cơm dưới lên, trộn cơm nóng và cơm nguội đều nhau rồi để trên bếp một lúc nữa cho cơm chín hẳn.

Cách Luộc Thịt Muốn luộc thịt cho trắng, dai, ngon thì khi bắc nước sôi, ta cho vào một muỗng soup giấm chua.
Có nhiều loại thịt rất dai như thịt heo nái, gà, vịt đã đẻ nhiều. Muốn luộc cho mềm thì trước khi cho vào soong, nhớ lấy lá đủ đủ bọc kín.

Làm Cho Lòng Heo Được Trắng Và Giòn Khi luộc lòng heo, chờ nước thật sôi mới thả lòng vào. Khi lòng đã chín tới thì vớt ra đem nhúng ngay vào chậu nước có pha một chút phèn chua (nước phèn này đã được đun sôi để nguội). Làm như thế, lòng sẽ trở nên trắng trẻo, giòn.

Ram Thịt Cho Mềm Và Ngọt Khi ram thịt phải chờ cho chảo thật nóng, đổ dầu vào đợi cho sôi. Cho thịt vào chiên một mặt cho vàng rồi mới trở qua mặt khác. Lửa phải to và đều. Khi thấy thịt đã vàng đều thì cho lửa nhỏ dần, cho vào thịt một ít nước, đậy vung thật kín, để lửa riu riu. Khi xiên vào miếng thịt không thấy máu chảy ra là được. Làm cách này thịt sẽ ngon và mềm.

Rán Mỡ Để Được Lâu Khi rán mỡ, đừng để quá lâu trên bếp. Nếu để cho mỡ vàng quá, mỡ sẽ mau có mùi khét.
Rán Mỡ Không Bị Bắn Tứ TungCho một chút muối vào chảo mỡ khi rán.
Rán cá, đậu, thịt gì cũng làm theo cách trên sẽ tránh được cảnh bị mỡ bắn phỏng tay chân, mặt mũi.

Khi Chảo Mỡ Bén Lửa Bốc Cháy Đừng bao giờ đổ nước lạnh để dập tắt lửa mà chỉ cần nhanh tay rút củi ra rồi đậy ngay nắp vung lên chảo.

Giữ Khoai Cho Trắng Khi luộc khoai, nên vắt vào vài giọt chanh trong lúc nước đang sôi để khoai không bị biến màu và có mùi vị đặc biệt. Trong lúc gọt khoai trước khi luộc, nên ngâm vào nước có vắt vài giọt chanh và tránh để khoai ngoài gió.

Để Bắp Chuối Và Chuối Xanh Không Xám Khi bào bắp chuối hoặc gọt chuối xanh, nên ngâm vào thau nước có vắt một trái chanh để không bị xám đen.

Xắt Hành Không Cay Mắt Khi xắt hành, nên để thau nước bên cạnh để tránh bị cay mắt.

Để Dao Khỏi Tanh Dùng một lát chanh hoặc một lát cà rốt chùi lên lưỡi dao.

Giảm Bớt Vị Mặn Của Thức Ăn Khi làm thức ăn, nếu lỡ bị mặn thì đừng đổ nước mà hãy thêm đường vào. Đường sẽ rút bớt chất mặn.

Nấu Món Ăn Có Pha Rượu Chia lượng rượu muốn cho vào thức ăn làm hai. Một phần cho vào thức ăn khi đang nấu, phần còn lại, khi thức ăn đã chín, sắp ăn mới cho vào, như vậy mới giữ được mùi thơm của rượu.

Khi Nấu Món Ăn Có Bơ Khi nấu không cần phải cho bơ ngay từ đầu. Khi chiên xào, ta dùng dầu hay mỡ, sau đó mới cho bơ nằm trên mặt dĩa thức ăn khi sắp ăn, như vậy mới giữ được mùi thơm của bơ.
Thử Bơ Hoặc Pho Mát Cắt mốt miếng bơ hay pho mát nhỏ, cho vài giọt Iode. Nếu phó mát hay bơ có pha khoai lang hay bột gạo thì nó sẽ biến thành màu xanh biếc.

Để Có Cháo Ăn Sáng Thật Mau Vo gạo chung với nếp để chừng 15-20 phút cho ráo nước. Đổ gạo vào bình thủy, đun nước thật sôi, chế vào đậy kỹ nước để trong một đêm. Sáng ra cháo sẽ chín nhừ. Nấu cháo đặc hay loãng tuỳ ý mà cho gạo theo ý muốn.
Giữ Sữa Tươi Không Bị Đóng Váng Sữa tươi để từ sáng đến chiều có thể bị đóng váng vì trong sữa có chất Acide Lactique. Muốn cho sữa khỏi bị đóng váng, hãy cho vào chai sữa bột một ít thuốc muối (Bicarbonate de Soude). Thuốc muối có đặc tính đánh tan chất Acide Lactique.

Bánh Gateâu Chưa Chín Kỹ Khi lỡ lấy bánh ra khỏi khuôn mà bánh chưa được chín kỹ, đừng chần chừ, hãy nhúng bánh thật nhanh vào sữa lạnh rồi đặt bánh vào trong lò hấp lại một lúc cho bánh chín.

Chữa Bột Quá Nhão Khi nhồi bột làm bánh, nếu lỡ bột quá nhão mà không muốn cho thêm bột khô, hãy lấy một cách khăn sạch, khô quấn bột vào đó và gói lại để khoảng 15-20 phút. Nếu bột quá nhão, bạn có thể để lâu hơn nữa hoặc có thể đem gói vào một cái khăn khác. Vì trong khi gói vào khăn, nước dư trong bột sẽ thấm vào cái khăn và bị bốc hơi bớt.
Chiên Bánh Không Bị Cháy Thái nhỏ một ít khoai tây chiên trước trong khi chảo mỡ (hay dầu) sau đó hãy chiên bánh.

Cắt Khoai Tây Thành Lát Không Vỡ Khi cắt khoai tây, hãy nhúng lưỡi dao vào nước sôi trước khi cắt.

Luộc Khoai Sọ, Khoai Môn, Khoai Mì Khi luộc khoai sọ, khoai môn, khoai mì nên ngâm vài giờ trước khi luộc cho các độc tố trong khoai tan hết ra nước, sau đó luộc thật kỹ, không nên nướng. Đối với khoai mì, nên cắt bỏ hai đầu rồi mới bóc vỏ đem ngâm.

Khoai Tây Chiên Không Bị Cháy Trước khi chiên, hãy nhúng khoai tây vào nước muối pha loãng trong vài phút. Khi sử dụng khoai tây, nên nhớ không nên ngâm lâu trong nước vì như thế sẽ làm hủy đi sinh tố C chưá trong khoai tây. Nếu để dành khoai tây quá lâu, khoai cũng mất đi sinh tố này.

Sử Dụng Khoai Lang Như Thế Nào? Khoai lang có nhiều sinh tố A và C. Có thể sử dụng khoai lang như khoai tây. Muốn giữ khoai lang để lâu mà không bị hư nên vùi khoai xuống cát và che mưa nắng. Khoai xắt lát, muốn để dành lâu, hãy lót khoai bằng trấu và bao quanh bằng phên tre cẩn thận.

Luộc Rau Đúng Cách Nấu nước sôi, cho vào một chút muối rồi thả rau vào ngay khi nước đang sôi. Nước sôi trở lại là vớt rau ra ngay, không nên luộc rau quá lâu, rau sẽ bị nhão và đỏ không ngon.

Hầm Đậu Rau Mềm Rửa đậu sạch và ngâm đậu trong nước. Sau đó rửa đậu lại cho sạch rồi cho vào soong, đổ nước ngập đậu rồi nấu. Lúc đầu để lửa lớn, khi sôi, đậy nắp kín, để lửa riu riu và lửa phải cháy đều. Từ đó không nên mở nắp soong hay khuấy đảo trong soong nữa.

Chiên Thức Ăn Khi chiên thức ăn, cần phải đun dầu (mỡ) cho thật sôi mới cho thức ăn vào để chiên. Muốn chiên giòn những món ăn có nhiều bột như cá, tôm, cua lăn bột, khoai tây… cần phải để dầu, mỡ ngập thức ăn; để lửa vừa phải.

Kho Thức Ăn

Khi kho thức ăn nên đậy vung kín và để lửa riu riu. Khi kho cá, cần đun lâu hơn thịt.

Lột Vỏ Trái Cây Dễ Dàng Chỉ cần nhúng trái cây vào nước nóng và vớt ra ngay, trái cây sẽ dễ lột vô cùng.

Thử Giấm Lấy một chút giấm cho vào chén rồi nhúng miếng giấy thấm màu trắng vào, nếu chuyển thành màu vàng là giấm tốt.

Giữ Mỡ Lâu Hư Phải để mỡ trong hũ thủy tinh, đậy kỹ, không cho nước lẫn vào mỡ. Khi mỡ được đổ vào hũ, cần phải đổ đầy, đừng để có khoảng trống cho không khí len vào.

Giữ Bánh Mì Được Lâu Gói bánh mì vào bao nylon bọc kín rồi để vào ngăn đông lạnh của tủ lạnh. Giữ bằng cách này có thể để bánh mì lâu cả tháng.

Muốn Khế Bớt Chua Xắt khế thành lát ngâm vào nước muối, sau đó vớt ra, cho vào chậu nước có pha một ít bột nở. Cuối cùng, rửa khế lại nhiều lần với nước.

Giữ Cho Dưa Chuột Được Tươi Lâu Lấy một cái tô đựng nước rồi cắm phần cuống trái dưa xuống nước ngập độ 1/3 trái dưa. Mỗi ngày nhớ thay nước một lần.

Giữ Cam, Chanh, Bưởi Ðược Lâu Với các loại quả này, phải chọn quả còn cả cuống, bôi vôi lên đầu cuống và để vào chỗ thoáng mát.

Khử Mùi Hôi Của Soong, Chảo Soong, chảo nấu thức ăn, khi rửa sạch, vẫn thường để lại một mùi hôi. Chỉ cần dùng chanh, bã trà, bã café để chùi rửa mùi hôi sẽ hết.

Khử Mùi Hôi Của Tỏi, Hành Trong Miệng Ăn cơm xong, trong miệng nếu còn mùi hôi của tỏi hành rất khó chịu. Hãy nhai một ít bã trà, mùi hôi sẽ hết.

Muối Dính Dầu Hôi Ðem muối bỏ vào chảo để rang, dầu hôi sẽ bay hơi hết.

Ðánh Trứng Mau Nổi Khi đánh trứng, muốn cho mau nổi, chỉ cần cho vào một chút muối.

Chiên Bánh Phồng Tôm Cho Giòn Muốn chiên bánh phồng tôm cho giòn, phải để dầu thật sôi, và đợi khi gần ăn hãy chiên. Nếu chiên quá sớm phải cho vào bao nylon cột kỹ lại.

Tỏi Dùng Như Thế Nào Tỏi là một gia vị rất tốt, có thể làm vị thuốc cho một vài loại bệnh thông thường. Muốn sử dụng tỏi đúng cách thì nên giã nhuyễn tỏi để ăn chứ đừng nên xắt lát.

Lấy Bánh Bông Lan Sao Cho Dễ Muốn lấy bánh bông lan ở khuôn ra một cách dễ dàng và không làm bể bánh, bạn hãy để khuôn bánh vào nước lạnh, rồi đậy lên trên bánh một cái khăn ẩm. Khoảng 10 phút sau có thể lấy bánh ra nguyên vẹn một cách dễ dàng.

Ðể Dành Chanh Ðã Dùng Những trái chanh đã dùng một nửa hay một phần, muốn để dành mà không sợ bị ê hay bị khô, hãy úp mặt chanh đã bị cắt xuống một cái dĩa để sẵn một ít giấm chua, chanh sẽ lâu hư.