Monday, September 29, 2008

How to create a wordpress theme from scratch

Lưu tạm vào đây khi nào có thời gian thiết kế cho mẹ con Vịt con cái theme, hihi...

I’m going to show you how to create a wordpress theme from scratch in these 3 parts of tutorial series. I will cover from Structuring, designing in Photoshop, slicing, coding into fully css based html, and finally wordpress implementation.


http://themetation.com/2008/07/14/how-to-create-wordpress-themes-from-scratch-part-1/

How to create a wordpress theme from scratch

Lưu tạm vào đây khi nào có thời gian thiết kế cái theme cho mẹ con Vịt con, hihi...

I’m going to show you how to create a wordpress theme from scratch in these 3 parts of tutorial series. I will cover from Structuring, designing in Photoshop, slicing, coding into fully css based html, and finally wordpress implementation.

http://themetation.com/2008/07/14/how-to-create-wordpress-themes-from-scratch-part-1/

Thursday, September 25, 2008

Nhận ra mình từ lênh đênh nguồn cội

TT - Giáo sư tiến sĩ Nguyễn Văn Tuấn không xa lạ với độc giả Tuổi Trẻ. Nhiều năm sống và làm việc ở nước ngoài, nhưng ông chưa bao giờ là người ngoài cuộc với những sự kiện nóng trong nước.


Một ngày cuối năm 2007 ở Sydney (Úc), Tuổi Trẻ có cuộc trò chuyện với ông tại Viện Nghiên cứu y khoa Garvan, nơi ông làm việc nhiều năm qua.

* Công việc của một giáo sư ở Úc ra sao, thưa ông?

- Hai tuần tôi mới có một giờ đứng lớp. Phần lớn thời gian còn lại trong tuần được dành cho công tác nghiên cứu và xin tài trợ cho nhóm nghiên cứu mà tôi phụ trách. Nhưng mỗi năm tối thiểu phải có một công trình. Nếu hai năm mà không có công trình nào, họ sẽ mời mình lên yêu cầu giải thích, và nếu giải thích không thỏa đáng sẽ được "mời" đi tìm việc khác, và họ cho sáu tháng để chuẩn bị.

* Áp lực xem ra không nhẹ, vậy làm sao để luôn có ý tưởng mới?

- Phải luôn đặt mình ở vị trí mở đường, lúc nào cũng theo đuôi thì không được. Muốn có ý tưởng mới, phải xuất phát từ nhu cầu thực tế lâm sàng và thực tế cuộc sống. Chẳng hạn, chúng tôi đặt vấn đề làm sao có thể đánh giá nguy cơ ai đó có thể bị gãy xương trong năm hay 10 năm tới.

Để có được những ý tưởng mới, lâu lâu chúng tôi đi "ẩn dật" một vài ngày. Đó là lúc chúng tôi kéo đến một địa điểm hẻo lánh, tắt hết máy fax, điện thoại bàn lẫn di động, cả máy tính cũng bỏ lại nhà, để vắt óc suy nghĩ đề án cho năm tới. Đó cũng là lúc chúng tôi phân tích mạnh yếu của đối thủ lẫn của mình, tìm xem đối thủ mình là ai, họ mạnh tới đâu, mình yếu chỗ nào. Nếu thấy thế yếu đó mình không có khả năng khắc phục thì mua quách đối thủ luôn cho rồi (cười)!

Nội Giáo sư tiến sĩ Nguyễn Văn Tuấn là thành viên của Hội đồng nghiên cứu y khoa và y tế quốc gia Úc, là nhà nghiên cứu cấp cao về di truyền học và loãng xương tại Viện Nghiên cứu y khoa Garvan ở Sydney, phó giáo sư y khoa thuộc Trường lâm sàng St Vincent's, trường y học và trường y tế cộng đồng thuộc Đại học New South Wales.

Ông là cựu phó giáo sư khoa y, đại học Wright State (Ohio, Mỹ) và giáo sư thỉnh giảng tại một số trường đại học ở Mỹ, Thụy Sĩ, Hong Kong và Thái Lan. Là tác giả của hơn 150 công trình nghiên cứu y học, chuyên gia bình duyệt cho 15 tập san y học quốc tế, ông được xem là một trong những tên tuổi quen thuộc nhất trong lĩnh vực nghiên cứu về dịch tễ học loãng xương trên thế giới.
* Ông nói giống hệt người Mỹ...

- Đúng vậy. Đó là bài học tôi học của người Mỹ. Từ kinh nghiệm của chính mình, đầu năm 1997, tôi sang Mỹ dự hội nghị thường niên về xương tại thành phố Cincinnati thuộc bang Ohio, và chỉ sau vài cuộc tiếp xúc với một số nhà khoa học Mỹ, vài tháng sau ở Úc, tôi được báo họ đã bổ nhiệm tôi vào chức phó giáo sư trường y ở một đại học thuộc bang Ohio.

Sau này tôi mới biết cái "cơ duyên" đó là cả một kế hoạch có bài bản để lôi kéo tôi về làm việc cho trường, vì lúc đó trường muốn "khắc tên" mình vào lĩnh vực loãng xương, và họ cần một người có khả năng thực hiện những công trình nghiên cứu quan trọng. Họ lên kế hoạch "mua" tôi cho gọn, và với tôi thì lại có lợi ích vì Mỹ dù sao cũng là xứ sở của cơ hội.

* Điều gì làm ông chạnh lòng nhất khi là nhà khoa học gốc Việt trên đất Mỹ?

- Tôi nhớ khi mới sang Mỹ làm việc, các đồng nghiệp thường hỏi tại sao tôi trở thành giáo sư trễ vậy, ở ngoài tuổi 40! Tôi thường trả lời rằng cuộc đời của mỗi người Việt cùng thế hệ với tôi là một lịch sử, là một con đường gập ghềnh, chứ không phẳng phiu như các đồng nghiệp ở phương Tây.

So sánh với đồng nghiệp nước ngoài tôi mới thấy sự phá hoại của chiến tranh về trí lực và nhân lực rất ư là ghê gớm. Một người nước ngoài trung bình, sống trong cảnh thanh bình có thể đã thành danh và ở đỉnh cao của sự nghiệp vào độ tuổi 30 hay 40. Trong khi đó, ở tuổi 20, vì hoàn cảnh lịch sử tôi chẳng làm gì được nhiều. Khi xong tiến sĩ, tôi đã trở thành một trung niên hơn 30 tuổi. Ở những năm bước sang tuổi 40, tôi mới có dịp cống hiến. Mà, cần phải nói ngay và nói rõ rằng những gì tôi đạt được trong vài năm qua chỉ là những đóng góp rất nhỏ trong khoa học; nó chưa xứng đáng được đề cao và chưa phải là những đóng góp mà tôi thấy tự hào.

* Chúng tôi từng băn khoăn vì sao có nhiều sinh viên học rất giỏi, nhưng VN lại có ít nhà khoa học lừng lẫy?

- Ngoài một số sinh viên xuất sắc của ta, tôi thấy đứng trên bình diện quần thể mà nói sinh viên ta nói chung chỉ trung bình hay trên trung bình một chút. Sự thật là nhiều sinh viên VN cũng rất vất vả, gian truân trong học hành để có đỗ đạt. Ở những năm đầu đại học sinh viên ta học tương đối giỏi, nhưng khi lên đến cấp nghiên cứu sinh (tức lúc đòi hỏi một sự độc lập trong học hành và sáng tạo) thì sinh viên VN yếu kém rõ rệt.

Thế hệ chúng tôi cũng từng không được khuyến khích đi tìm hiểu những sự việc, hiện tượng xung quanh xảy ra như thế nào và tại sao. Kết quả cuối cùng là nhiều thế hệ học sinh không có cơ hội nghiên cứu khoa học.

* Thật ngạc nhiên khi thấy tuy nhiều việc như thế, ông vẫn theo dõi sát sao tình hình quê nhà và đóng góp nhiều vấn đề hữu ích cho quê hương.

- Ban ngày tôi là người của Viện Garvan, của Đại học New South Wales, của Bệnh viện St Vincents, nhưng ban đêm tôi dành thì giờ cho VN. Tôi làm đủ thứ việc, như thực hiện các nghiên cứu liên quan tới chất dioxin, tham gia nghiên cứu loãng xương, cố vấn cho đồng nghiệp và nghiên cứu sinh viên bên nhà, viết báo, viết sách... Hễ thấy "có chuyện" là lên tiếng.

Mà tôi nghĩ chẳng riêng gì tôi, nhiều người cùng cảnh ngộ khác cũng vậy thôi: ra khỏi quê hương nhưng vẫn gắn bó với quê nhà, chứ không có nghĩa là chối bỏ quê hương. Với tôi, thân thì ở đây nhưng tâm thì ở VN. Tôi có lần viết đại khái rằng một lần lênh đênh nguồn cội mới nghiệm ra mình là ai, nơi chốn của mình là chỗ nào. Thành ra tôi phát hiện một sự thật hiển nhiên: đi không phải là chối bỏ mà bắt đầu cho việc trở về tốt hơn. Tôi vẫn nghĩ sẽ có một ngày không xa, tôi quay về quê nhà để làm tròn bổn phận của một người được sinh ra và lớn lên ở VN.

* Xin cảm ơn ông và chúc ngày trở lại đó sẽ không xa.

Ông dự báo thế nào về sự phát triển của khoa học VN?

- Tình trạng khoa học của một nước thường được đánh giá qua các ấn phẩm khoa học được công bố trên các tập san quốc tế. Mới đây tôi và một đồng nghiệp có làm một phân tích về các ấn phẩm khoa học từ các nước trong vùng Đông Nam Á thì thấy trong thời gian từ 1996-2005 (10 năm), các nhà khoa học VN công bố được khoảng 3.500 bài báo khoa học trên các tập san khoa học quốc tế.

Con số này thoạt nghe thì khá đấy, nhưng sự thật là thấp nhất trong vùng, thấp hơn cả Indonesia và Philippines. Con số công trình khoa học của VN chỉ bằng 1/5 số bài báo từ Thái Lan, 1/3 so với Malaysia, 1/14 so với Singapore! Tôi cũng ước tính nếu tốc độ tăng trưởng chậm như hiện nay thì phải cần đến 60 năm sau chúng ta mới bắt kịp số lượng bài báo của Thái Lan vào năm 2005!

Đó là mới nói về số lượng. Còn chất lượng cũng kém lắm. Nhưng điều đáng quan tâm nhất với tôi là chỉ có 20% các công trình nghiên cứu khoa học từ VN là do nội lực, phần 80% còn lại là do hợp tác hay giúp đỡ từ nước ngoài. Trong khoa học, chúng ta chưa đứng vững bằng đôi chân mình. Hợp tác khoa học là xu hướng tất yếu trong thời đại toàn cầu hóa ngày nay, nhưng điều tôi quan tâm là các hợp tác khoa học từ VN là theo kiểu "khoa học nhảy dù”, tức nhà khoa học nước ngoài vào VN hợp tác nhưng họ giành công trạng về họ!

Nếu chúng ta không sớm chấn chỉnh hệ thống hoạt động khoa học, kể cả hệ thống cung cấp tài trợ và xây dựng các chuẩn mực khoa học theo tiêu chuẩn quốc tế, tôi sợ chúng ta sẽ tụt hậu và trượt dài trên trường quốc tế.

PHAN XUÂN LOAN thực hiện

http://www.tuoitre.com.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=237230&ChannelID=312

Friday, September 19, 2008

Khủng hoảng giáo dục: Di sản tri thức và bất cập tâm thức

Với một di sản tri thức của nền học vấn làm quan, những bất cập nội tại bấy lâu chưa có dịp bộc lộ lúc xã hội còn khép kín thì nay đã và đang phát tác khi chúng ta phải mở cửa và tiếp xúc để hội nhập.

Ngạn ngữ Việt Nam có một câu mang đầy tinh thần tự phê phán: “Tiên trách kỷ, hậu trách nhân” cho thấy các cụ ta ngày trước rất coi trọng cái dũng khí dám bộc bạch, dám nói về cái sai, cái yếu kém của bản thân để tự sửa mình.

Trước thực trạng đáng lo ngại của nền giáo dục nước nhà chúng ta hãy thử (dù chỉ là một lần ) làm cái việc mà ngày nay không có mấy người hào hứng lắm, đó là “tiên trách kỷ” một cách nghiêm túc.
Đã có nhiều góp ý tâm huyết và những kiến nghị có nội dung sâu sắc, sáng tạo mang tính xây dựng của các nhà giáo, nhà hoạt động xã hội, nhà khoa học, nhà quản lý và nhiều người dân ở trong cũng như ngoài nước về đề tài nóng bỏng này nhằm tìm một lối ra cho cuộc khủng hoảng giáo dục hiện nay, ngõ hầu đưa đất nước bắt kịp với tốc độ chóng mặt của chuyến tàu hội nhập. Nhưng trên thực tế, thời gian cứ trôi đi như “bóng câu qua cửa sổ“ mà chưa thấy nhiều chuyển biến sâu rộng như mong đợi, khiến dư luận xã hội từ sốt ruột đã chuyển sang tâm lý ngày càng thêm bức xúc.
Trên mặt báo hàng ngày có thể bắt gặp những tin đại loại như “học sinh bỏ học hàng loạt” hay “giáo dục đại học phát triển tràn lan, coi nhẹ chất lượng”, “bệnh thành tích“, “dạy thêm, học thêm”, “chương trình quá tải, nhồi nhét, lạc hậu, xa rời thực tế“, “nạn chạy điểm, chạy trường”, “gian lận trong thi cử” … Cuối cùng thì xã hội có xu hướng quy kết trách nhiệm vào các cấp lãnh đạo của ngành giáo dục và dường như mấu chốt để giải quyết vấn đề đã được tìm ra!

Có điều là nếu nhìn sang lĩnh vực y tế ta sẽ thấy một khung cảnh cũng rất bề bộn với tình trạng các bệnh viện quá tải, người nghèo không thể tiếp cận với dịch vụ khám chữa bệnh và thuốc điều trị tốt vì thu nhập còn rất eo hẹp, y đức ở một bộ phận không nhỏ y, bác sĩ xuống cấp nghiêm trọng… Ngó vào lĩnh vực giao thông cũng thấy rất nhiều bất cập và bức xúc…

Có lẽ chương trình truyền hình trong thời khắc tiễn biệt năm cũ là “Táo Quân chầu Trời“ đã thành công nhờ khắc họa một cách bao quát và dí dỏm thực trạng nhiều mặt của xã hội Việt Nam thời nay theo phong cách truyền thống dân tộc rất đỗi tự trào. Đó cũng là một kiểu “trách kỷ“ có văn hóa.

Nền học vấn để làm quan

Một khi động đến lĩnh vực nào cũng thấy nhiều bất cập, bức xúc và những biểu hiện của sự xuống cấp về đạo đức thì chắc chắn nền văn hóa của xã hội đang có vấn đề. Người Việt ta vốn rất tự hào vì có một truyền thống văn hiến ngàn năm khiến các nước láng giềng ASEAN phải ngưỡng mộ nhưng ngày nay phỏng có mấy trường đại học Việt Nam đạt chuẩn khu vực và số bài báo khoa học của cả nước được đăng trên các tạp chí có uy tín quốc tế liệu có nhiều hơn con số đó của riêng một đại học Thái Lan? Số bằng phát minh sáng chế đăng ký với thế giới trong cả lĩnh vực khoa học cơ bản và ứng dụng hàng năm có chăng chỉ đếm trên đầu ngón tay, trong khi một công ty LG của Hàn Quốc đã sở hữu tới con số hàng trăm!

Đã từ lâu rồi chúng ta vẫn tự huyễn mình rằng dân ta rất cần cù, thông minh và trọng tri thức. Phải, có lẽ đúng là như vậy. Nhưng cũng xin đưa ra một so sánh thống kê: theo nhà văn hóa Phan Ngọc, khi tìm hiểu thư mục di sản văn hóa Hán Nôm Việt Nam thì trong số 6000 quyển sách tạm gọi là tiêu biểu cho tâm thức của trí thức Việt Nam trước khi tiếp xúc với văn hóa Pháp có quá nửa là sách học để đi thi, các bài mẫu, các sách giảng về các kinh truyện, các bài thơ phú viết theo lối văn chương hàn lâm. Không có cách nào chối cãi đây là một nền học vấn để làm quan!

Phần còn lại theo những thư mục như sau: Chính trị 99 quyển nói về bang giao, quan chức; Địa lý 267 quyển nói về bản đồ, địa lý toàn quốc, địa lý địa phương; Kinh tế gồm 90 quyển nói về nông nghiệp, thủ công nghiệp; Lịch sử 964 quyển gồm các quyển sư, các sử liệu, các gia phả; Binh thư có 23 quyển; Tôn giáo, tư tưởng có 898 quyển; sách y dược có 395 quyển.

Và như vậy không có một quyển nào nói về thương nghiệp, về kỹ thuật chế tạo công cụ sản xuất hay máy móc, tàu bè… Đây là cách nhìn quan lại, không phải cách nhìn của người sản xuất.

Tuy nói là trọng nông, nhưng trong 70 quyển thuộc loại nông nghiệp có 9 quyển nói về địa bạ, 4 quyển về cách kê khai ruộng đất, 5 quyển về đê điều, 18 quyển về việc đóng thuế, còn lại là nói về các thổ sản. Toàn bộ kinh nghiệm nông nghiệp của một nước cực kỳ phong phú về mặt này đã không được nhắc đến.

Trong sách về thủ công nghiệp chỉ thấy nói về tiểu sử các ông thành hoàng các nghề, có sự liên kết các nghề ở từng địa phương nhưng không có một chỉ dẫn nào về kỹ thuật trong khi người thợ thủ công Việt Nam nổi tiếng với bàn tay vàng khéo léo. Không có sách dạy nấu ăn tuy các cụ rất thích ăn ngon và cũng chỉ có vài quyển nói về tạc tượng Phật (Theo Phan Ngọc - Bản sắc văn hoá Việt Nam - NXB Văn học, Hà Nội 2006).

Trong thời Pháp thuộc tình hình cũng không thay đổi bao nhiêu. Mấy chục năm tranh thủ được sự giúp đỡ to lớn của các nước thuộc phe XHCN đã tạo nên một nền khoa học và giáo dục có tiến bộ vượt bậc, đặc biệt là các môn khoa học cơ bản nhưng về công nghệ cao, kỹ thuật tiên tiến và thương mại, khoa học quản lý kinh tê ́- xã hội, nhân văn thì rõ ràng còn khoảng cách khá xa khi so sánh với các nước phương Tây.

Như vậy là truyền thống trí thức Việt Nam có đặc điểm thiên lệch về các môn chiêm nghiệm, ít phát triển các môn khoa học thực chứng, do đó lối suy nghĩ giáo điều, thiếu khách quan, sáo mòn, thuộc lòng từ chương nặng về thi cử và lý thuyết suông, xa rời sản xuất vật chất và hiệu quả lao động, học để làm quan cho oai đã ăn sâu vào não trạng nhiều thế hệ người Việt.

Với một di sản tri thức như vậy, những bất cập nội tại bấy lâu nay chưa có dịp bộc lộ lúc xã hội còn khép kín thì nay đã và đang phát tác khi chúng ta phải mở cửa và tiếp xúc để hội nhập.

Sự bất cập từ trong tâm thức

Còn một đặc điểm gây trở ngại ghê gớm cho sự tiến bộ đó là tư duy và hành động của anh tiểu nông. Chính lối nghĩ trọng nam khinh nữ đã là nguyên nhân của áp lực dân số đè nặng lên nền giáo dục và y tế đang thiếu phòng học và giường bệnh.

Tư tưởng nông dân làm ăn theo mùa vụ là khởi nguồn cho lối tư duy nhiệm kỳ và nề nếp phong kiến gia trưởng thiên về áp đặt là cha đẻ của lối hành xử mất dân chủ trong sinh hoạt gia đình và xã hội. Không hiếm trường hợp tư duy “đồng hương, đồng khói và vùng, miền” đã làm nảy sinh căn bệnh bè phái hay các nhóm quyền lợi tác yêu tác quái.

Còn nhiều lắm những hệ lụy của di sản văn hóa - lịch sử rất oai hùng mà cũng lắm đau thương, nhưng điều cần rút ra từ đây là nguyên nhân của mọi sự bất cập nó nằm ngay trong tâm thức chúng ta, tức là ngay trong tôi, trong anh dù anh có phê phán người này người nọ thì những khuyết điểm, sai lầm mà anh lên án đều có mầm mống trong anh vì cả anh và tôi đang được “nhúng” vào cùng một môi trường văn hóa.

Đã có lần nhà sử học của kinh tế thế giới, vị giáo sư danh dự trường đại học Havard David Landes nói: “cho dù một quốc gia với bề dày văn hóa nhưng kiêu ngạo và bảo thủ thì quốc gia đó cũng không thể đứng vững mãi mãi. Thái độ cần có ở đây là tôn trọng tri thức, dù đến từ bất cứ đâu. Ánh sáng tri thức chính là yếu tố văn hóa đem lại sự thịnh vượng kinh tế.” Mà xét cho đến cùng thì tri thức chỉ sản sinh ra ở nơi nào nó được quý trọng và tự do phát triển, hiển nhiên là nơi đó cũng sẽ song hành một nền giáo dục tiên tiến.

Ts. Phạm Gia Minh

http://www.tuanvietnam.net/vn/sukiennonghomnay/4816/index.aspx

Thursday, September 18, 2008

Tội làm hư dân

(TBKTSG) - Tòa án thường chỉ xét những tội cụ thể. Nhưng tôi tưởng tất cả các quan chức một khi hư hỏng, ngoài hành vi phạm pháp, còn phải xét thêm một tội nữa: Tội ngấm ngầm thúc đẩy dân làm bậy. Tội làm hư dân.

Đại Đường Tây vực ký của nhà sư Huyền Trang vừa được dịch ra tiếng Việt (NXB Phương Đông, 2007). Trong thiên bút ký này, Đường Tăng ghi lại ấn tượng sau khi đi qua 138 nước nằm giữa Trung Hoa và Ấn Độ (có thời gộp chung là Tây vực). Đoạn tổng thuật về địa khu Tốt Lợi kể: “Người Tốt Lợi phong tục kiêu ngoa, chuyên môn lừa đảo, tham lam hám lợi, giữa cha con với nhau cũng tính toán hơn thua chẳng cần người tốt kẻ xấu, cứ nhiều tiền là được quý trọng... Cư dân một nửa làm ruộng, một nửa chuyên đi trục lợi”.

Tôi ghi lại đoạn này bởi lẽ nó góp phần gạt đi trong đầu một phân vân khi nhận thức. Từ nhỏ bọn tôi đã được học rằng chỉ có các cá nhân xấu, chứ nhân dân lao động nơi đâu cũng tốt.

Hóa ra không phải vậy! Tùy hoàn cảnh mà con người biến đổi. Và là biến đổi trên diện rộng. Tục ngữ ta xưa cũng có câu “bạc như dân, bất nhân như lính”. Đọc lại lịch sử thấy nhận xét chua chát đó không hoàn toàn sai. Thế còn bây giờ? Một lần, chập choạng tối, tôi đang đi trên đoạn đường gần ngã tư Hàng Chiếu - Đồng Xuân, Hà Nội thì gặp mưa, đành tính chuyện lánh tạm vào một mái hiên. Bất ngờ nghe người ở trong nhà nói hắt ra:

- Biến đi cho người ta còn bán hàng.

Trời ơi! Con người đô thị bây giờ càn rỡ và bất nhân ngoài sức tưởng tượng!

Ở các tỉnh xa, các vùng kinh tế, thì sự hư hỏng lại mang sắc thái khác. Có lần trên một tờ báo, đọc thấy tin ở huyện Tam Nông, Đồng Tháp nhiều người lấn chiếm đất công, rừng công, bất tuân pháp luật. Lần khác xem ti vi, lại thấy dân một xã của Quảng Trạch, Quảng Bình đua nhau chặt rừng phòng hộ ven biển bán cho tư thương, huyện xã đã tìm đủ cách ngăn chặn nhưng không nổi. Đủ chuyện đã xảy ra, dân ăn cướp, dân ăn cắp, dân ăn vạ, dân xà xẻo của công và tiếp tay cho kẻ xấu, dân làm hại lẫn nhau... thiên hình vạn trạng không xếp loại được.

Không phải chỉ trong sách vở nhà trường mới có lối khái quát vậy, mà sự thực là suốt thời chiến tranh, nhân dân lao động đã là những con người thuần hậu, chịu thương chịu khó, hướng về điều thiện và muốn sống theo pháp luật. Chắc chắn sự thay đổi diễn ra hôm nay “không thuộc về bản chất”. Vấn đề còn lại là cắt nghĩa tại sao lại xảy ra cái chuyện chẳng ai muốn đó?

“Người ta phán xét một chính thể thông qua tác động của nó lên con người. Cụ thể là có thể và nên xét xem nó tạo nên những công dân như thế nào, nó làm cho dân tốt lên hay xấu đi”
Trở lại việc dân ở huyện Tam Nông, Đồng Tháp nói trên. Đọc kỹ các bài viết liên quan thì thấy trước khi dân hư có chuyện ông phó chủ tịch huyện phá rừng. Người dân chung quanh thấy ông cán bộ to hành xử như trên (chặt tràm đào ao làm thành lãnh địa riêng), bảo nhau ùa vào làm bậy.

Đây cũng là diễn biến thấy ở nhiều nơi khác. Trong phần lớn trường hợp, tình trạng dân hư liên quan tới hiện tượng nhức nhối là chuyện cán bộ kiếm chác vô nguyên tắc, tư lợi vô cảm, gộp chung là thoái hóa biến chất. Đáng lẽ phải gương mẫu tuân thủ pháp luật thì họ lại tự đặt mình cao hơn luật, phá luật để trục lợi.

Trước mặt người dân lúc ấy, lý tưởng như bị xúc phạm. Người ta không thể thờ ơ và dễ bảo mãi. Về mặt triết học có thể bảo con người bắt đầu rơi vào hư vô. Chúa đã chết rồi! Ai muốn làm gì thì làm! Bởi cảm thấy trên đời này không còn cái gì là thiêng liêng, họ rơi vào liều lĩnh phá phách một cách hung hãn. Những cái xấu sẵn có mà bấy lâu họ kìm nén, được lúc vùng lên quẫy lộn. Tự cho phép mình hư! Nhìn nhau để yên tâm mà hư! Khuyến khích nhau hư thêm, càng đông người hư càng thích! Sự bùng nổ lúc này là theo lối dây chuyền, không gì có thể giữ con người lại nữa.

Ta chưa có thói quen đánh giá bộ máy quan chức nên tưởng là khó. Sự thực khá đơn giản. Muốn biết giới quan chức một địa phương ra sao, cứ xem dân ở đấy thì biết. Dân ngoan làm ăn tử tế tức là bộ máy làm việc tạm gọi là chấp nhận được, người ta còn tin. Còn dân hư, nhất định là những người quản lý họ có vấn đề, không tham nhũng thì cũng kém cỏi trong quản lý. Chỉ cần chịu tìm sẽ thấy ai có lỗi.

Tòa án thường chỉ xét những tội cụ thể. Nhưng tôi tưởng tất cả các quan chức một khi hư hỏng, ngoài hành vi phạm pháp, còn phải xét thêm một tội nữa: Tội ngấm ngầm thúc đẩy dân làm bậy. Tội làm hư dân.

Quý I năm nay, NXB Tri thức đã cho in một cuốn sách thuộc loại kinh điển. Đó là cuốn Chính thể đại diện của John Stuard Mill (nguyên bản được viết từ năm 1861). Ở trang 82, tôi đọc được một câu đại ý như sau “Người ta phán xét một chính thể thông qua tác động của nó lên con người. Cụ thể là có thể và nên xét xem nó tạo nên những công dân như thế nào, nó làm cho dân tốt lên hay xấu đi”. Đúng là có liên quan tới vấn đề chúng ta đang bàn.

VƯƠNG TRÍ NHÀN


http://www.thesaigontimes.vn/Home/vanhoadulich/vanhoa/5713/

Biết mình "say" thì mới thật là "chưa say"

Bài viết rất hay. Đã từ lâu tôi nhận thấy các dịch vụ do người Việt Nam làm, nếu nằm trong các tổ chức dù là tư nhân hay nhà nước, nếu có độc quyền độc đoán thì rất là tệ. Không phải vì người Việt Nam không có người tốt biết phục vụ. Ngược lại là khác. Tuy nhiên, có lẽ hình như khi con người đi vào một môi trường nào đó trong đó họ có toàn quyền (hay đa số quyền) để quyết định một việc gì mà không cần có ai có khả năng hay quyền lực ở trên để phán xét họ thì họ dễ trở nên những con người hống hách.

Quyền lực dù to hay nhỏ hay ở bất cứ cấp bậc nào, khi nó trở thành "độc đoán" thì dễ biến thành một loại rượu mạnh, nếu không muốn nói là thuốc độc, gặm nhấm ăn mòn dần các tư cách và văn hóa tốt đẹp mà con người phải tôi luyện hàng ngàn năm mới đạt được.

Tiếc thay, như con người đang "nghiện rượu", chẳng có một lời nói nào từ bên ngoài sẽ làm cho họ lắng nghe và "tỉnh ngộ". Chỉ hy vọng có hai điều: (1) lương tâm và trí óc họ còn có những lúc "sáng", để tự nhìn ra thân thể và tinh thần tiều tụy của mình dù rằng có những lớp chăn che đậy rất kín, (2) những người gần gũi với họ, nếu chưa nghiện rượu thì vẫn còn có đủ can đảm và tình thương để nói lên những điều sự thật (như bài báo trên đây) dù rằng khi làm việc ấy, có khi sẽ mang đến cho mình những điều không có lợi.

Wednesday, September 17, 2008

Tản mạn về mảnh bằng Ph.D


Những năm gần đây có khá nhiều sinh viên Việt Nam du học ở Mỹ và nhiều nước khác, bằng nhiều con đường khác nhau. Người có học bổng, chức trợ giảng (teaching assistant - TA), hoặc trợ nghiên cứu (research assistant - RA), người thì du học tự túc. Tôi không nhớ chính xác là đã đọc ở đâu đó rằng có hơn nghìn du học sinh mỗi năm sang Mỹ. Nhiều người trong số họ theo học tiến sĩ (Ph.D).

Thông tin về làm thế nào để xin học bổng, TA, RA, xin thư giới thiệu, cách viết dự định cá nhân (personal statement), vân vân đầy rẫy trên các mailing lists trên Internet.

Thế nhưng, một số câu hỏi quan trọng mà tôi ít thấy sinh viên hỏi là: "tại sao lại học Ph.D?", "có đáng bỏ thời gian học Ph.D hay không?", "làm thế nào để đánh giá mảnh bằng Ph.D?", "tôi có đủ khả năng để học Ph.D hay không?", "học Ph.D xong rồi làm gì?", vân vân.

Có lẽ ta cần một luận án ... Ph.D để trả lời phần nào thỏa đáng các câu hỏi trên. Cũng có lẽ có ai đó trong các ngành giáo dục hay tâm lý học đã làm rồi. Về mặt kinh tế thì một người bạn cho tôi biết đã có cả mớ công trình nghiên cứu về “cái giá của giáo dục” (returns to education).

Trong bài viết này, tôi thử lạm bàn lan man xung quanh các câu hỏi trên. Bài viết hoàn toàn không mang tính hàn lâm (academic), nghĩa là sẽ không có các con số thống kê, bảng phân tích, để ủng hộ một (vài) luận điểm nào đó. Sẽ không có tham khảo đến các nguồn thông tin tín cẩn và các thứ tương tự. Tác giả chỉ dựa trên các kinh nghiệm, quan sát, và suy nghĩ cá nhân, sau gần chục năm học và "hành nghề" Ph.D ở Mỹ.

Tôi chắc là một cá nhân khác trong hoàn cảnh của tôi sẽ có không ít ý kiến bất đồng. Tôi cũng không có tham vọng nói hết được những cóp nhặt kinh nghiệm của mình. Ngoài ra, tôi sẽ nhấn mạnh nhiều hơn mặt trái của việc học Ph.D.

Ðiều tôi hy vọng là qua bài viết này, tôi có thể giúp cho các sinh viên (cùng gia đình) sẽ và đang học Ph.D ít nhiều chuẩn bị tinh thần cho đoạn đường chông gai nhưng thú vị này; hy vọng chỉ ra được một góc nhìn khác về Ph.D so với quan niệm chung của xã hội.

1. Ph.D là gì ?

Trước hết ta hãy thử bàn về mảnh bằng Ph.D từ cái nhìn hàn lâm. Ph.D là viết tắt của chữ Doctor of Philosophy. Học bậc Ph.D, cao nhất trong các học bậc, đầu tiên xuất hiện ở Ðức, sau đó được Mỹ và nhiều nước phương tây khác sử dụng. Bằng Ph.D đầu tiên của Mỹ xuất hiện khoảng cuối thế kỷ 19. (Ơ Y' cho đến những năm 1980 mới có bằng Ph.D.)

Từ Ph.D có gốc latin là Philosophiae Doctor. Chữ doctor nghĩa là "thầy" (teacher), và "chuyên gia", "chức trách" (authority). Chữ philosophy (triết học) có nguồn gốc từ thời trung cổ (medieval) ở Châu Ảu, khi mà các trường đại học có bốn chuyên khoa (faculty) chính: thần học (theology), luật học (law), y học (medicine), và triết học (philosophy). Philosophy ở đây dùng để chỉ các ngành học không dẫn đến một nghề nghiệp thực tế nhất định của thời đó như người của nhà thờ, luật sư, và bác sĩ.

Ðến nay thì không phải Ph.D nào cũng liên quan đến philosophy, cho dù lấy theo nghĩa bóng nhất của từ này. Tuy nhiên chữ doctor vẫn mang đầy đủ ý nghĩa của nó. Ở phương Tây, trong nghi thức giao tiếp người ta gọi một người có bằng Ph.D là doctor. Hầu hết các trường đại học đều đòi hỏi toàn bộ giảng viên và các giáo sư có bằng Ph.D. Ða số các nhà nghiên cứu ở các phòng nghiên cứu chuyên nghiệp đều có bằng Ph.D.

Tuy vậy, điều ngược lại không đúng: không phải tất cả các Ph.D đều có thể làm giảng viên, giáo sư, hay nghiên cứu viên. Có những Ph.D thậm chí chẳng bằng một kỹ sư thông thường. Cũng có khá nhiều Ph.D, sau khi "hành nghề" một thời gian thì lên chức, hoặc chuyển sang làm salesman hoặc làm quản lý, vân vân. Ta sẽ quay lại đề tài này sau.

Cái nhìn hiện đại của Ph.D như sau. Ðể hoàn tất Ph.D, sinh viên phải đạt được hai mục tiêu chính: (a) hoàn toàn tinh thông một ngành (hoặc phân ngành) nào đó, và (b) góp phần mở rộng khối kiến thức của nhân loại về ngành đó.

Mục tiêu (b) là cái lõi để phân biệt bậc Ph.D với các bậc học khác. Ph.D không phải là cái bằng "nhai lại": đọc nhiều, thi lấy điểm cao là xong. Một Ph.D đúng nghĩa phải có một vài công trình và ý tưởng nghiên cứu của riêng mình (originality).

Về mặt lý thuyết thì là thế. Thực tế ra sao?

2. "Nghề" Ph.D: đoạn trường cũng lắm chông gai

Ở Mỹ, là sinh viên sau đại học (graduate student) cũng là một nghề. (Tôi không dùng từ "nghiên cứu sinh" vì không phải graduate student nào cũng làm nghiên cứu thực thụ, nhất là các sinh viên đang học thạc sĩ.) Các graduate students thường làm TA hoặc RA, với mức lương khoảng 900USD đến 1200USD một tháng (sau thuế), tiền học được bao. Sống tằn tiện thì mức lương này vừa đủ một người sống. Thường thì các gradudate students sống chui rúc trong một căn hộ nhỏ bé nào đó (dĩ nhiên là có ngoại lệ, đa phần do may mắn), hầu hết thời gian dùng ở các phòng lab (phòng thí nghiệm hoặc phòng máy tính) và thư viện. Tối về đến nhà là lăn ra ngủ để rồi sáng mài mèo con lại hớn hở bút chì bánh mì lên đường.

Kể chuyện cuộc sống gradudate students thì có lẽ cần một tiểu thuyết vài trăm trang. Ðiều tôi muốn đề cập là: trong hoàn cảnh làm việc căng thẳng như vậy, một sinh viên thông thường thỉnh thoảng sẽ phải tự đặt câu hỏi "có đáng không?" Nhất là khi công việc học tập và nghiên cứu không trôi chảy. Mà kể cả khi nó hoàn toàn trôi chảy, tính về các mặt kinh tế, tinh thần, thời gian, và ... philosophy, câu hỏi trên vẫn hoàn toàn hợp lệ.

Về mặt kinh tế thì lương trung bình của Ph.D ra trường có nhỉnh hơn thạc sĩ (M.S) và bậc đại học (B.S) một chút, nhưng sự khác biệt này không khỏa lấp được lỗ lã cho thu nhập đã mất trong khoảng thời gian làm Ph.D: trung bình từ 4 đến 5 năm. Tính tổng số USD kiếm được cho mỗi giờ học tập thì Ph.D là hạng bét (tính tương đối theo từng ngành học).

Về mặt tinh thần thì làm việc căng thẳng và cật lực trong một thời gian dài trong một môi trường cạnh tranh tương đối công bằng nhưng khắc nghiệt (!) hoàn toàn có thể ảnh hưởng xấu đến tâm lý cá nhân. Ðiều này đặc biệt đúng với sinh viên du học: thiếu thốn các nhu cầu văn hóa và tinh thần cơ bản của quê hương, cơ hội tìm bạn tình hoặc bạn đời bị giảm thiểu (với phái nam), vân vân. Không phải hiếm mà người ta hay thấy bọn Ph.D hơi ... gàn gàn. Công bằng mà nói, gradudate students do thiếu thốn văn hóa hay tìm cách nghiên cứu học hỏi thêm cái này cái khác ngoài ngành của mình (nhạc, thơ, lịch sử, chính trị, triết học, ...), cho nên bọn gàn cũng có thể rất đa tài. Ở Mỹ thì địa vị xã hội của một Ph.D cũng chẳng hơn gì các nghành nghề khác là mấy.

Yếu tố tinh thần này rất quan trọng. Có không ít các gradudate students cần đến 8, 9 năm mới làm xong Ph.D. Nhiều năm trời "ở mãi kinh kỳ với bút nghiên", ngoảnh đi ngoảnh lại chưa làm được gì ra hồn mà đã ngoài 30. Khi thị trường việc cho Ph.D bị thuyên giảm thì người ta rơi vào cái vực muôn thuở: "về hay ở", "về thì đâm đầu vào đâu?". Nhiều năm làm việc với mức lương vừa đủ sống, các Ph.D mới ra trường hoàn toàn không dành giụm được gì, chưa nói đến việc nợ thẻ tín dụng kha khá. Dù các nhà chức trách đã có kế hoạch đãi ngộ nhân tài, chế độ này vẫn còn xa rời thực tế. Ðầu tư tinh thần và thời gian của một Ph.D quá nhiều để có thể hài lòng với một công việc một vài triệu đồng một tháng. Họ sẽ phải tự hỏi: nếu xưa mình không đi học thì bây giờ cũng có thể đã phây phây lương vài triệu một tháng? Vậy cả chục năm trời bỏ ra công cốc à? Tôi đã nhập nhằng yếu tố tinh thần và kinh tế, nhưng đôi khi ta không tách rời chúng được.

Một khía cạnh khác của yếu tố tinh thần là sức ép của gia đình và người thân. "Người ta 4 năm đã xong Ph.D, vợ con nhà cửa đàng hoàng, bọn không Ph.D thì cũng giám đốc với trưởng phòng, xây nhà to cửa rộng cho bố cho mẹ; còn mày bây giờ ngoài 30 mà vẫn cứ lông bông tay trắng. Ông chẳng ra ông, thằng chẳng ra thằng".

Về mặt triết học mà nói thì có đáng học Ph.D không? Câu hỏi này phụ thuộc rất nhiều vào bản thân sinh viên: đi học Ph.D để làm gì? Ta sẽ quay lại điểm này trong phần tới.

Bây giờ hãy giả dụ cô/anh Ph.D yêu dấu của ta tìm được một công việc ổn định ở nước ngoài, quyết định ở lại tích lũy tư bản giúp gia đình và tích lũy kinh nghiệm để sau này, cách này hay cách khác, (về) giúp quê hương. Có hai nhánh công việc chính cho một Ph.D mới ra trường: (a) làm việc ở một phòng nghiên cứu chuyên nghiệp nào đó, và (b) một chân giảng viên hoặc giáo sư ở một trường đại học.

(Hai công việc này có thể chỉ có được sau một vài năm làm postdoc nữa . Ta hãy cứ gộp luôn postdoc vào tổng thời gian cho tiện, mặc dù lương postdoc khá hơn lương gradudate students.)

Lương bổng và giá trị của vị trí mới phụ thuộc hoàn toàn vào việc người ta đánh giá Ph.D như thế nào. Tôi sẽ bàn về việc này trước. Tôi cũng có ý nói lan man vềđề tài "định trị Ph.D" sau khi đọc một bản tin ở VNExpress thấy trong nước người ta có nói về đánh giá Ph.D loại "giỏi, khá, trung bình" (sau một buổi họp nào đó). Phạm vi "định trị Ph.D" của tôi chủ yếu áp dụng cho các nghành kỹ thuật và khoa học tự nhiên như điện, điện tử, khoa học máy tính, toán, lý, ...

Khi xưa thì giá trị của một Ph.D mới ra trường tùy thuộc vào giá trị công trình nghiên cứu trong luận văn tốt nghiệp. Sau khi ra trường thì doctor mới sẽ phát triển công trình này thành một vài bài báo đăng ở các tạp chí (journals) và hội nghị (conference) chuyên ngành. Các bài báo này đều được phê bình (reviewed) bởi các chuyên gia đã trưởng thành trong cùng ngành. Các bài báo không đóng góp gì nhiều hoặc vớ vẩn sẽ không được nhận đăng.

Hiện nay thì áp lực đăng báo (publication) của graduate students khi còn đang học lớn hơn gấp bội. Một công việc kha khá ở một trường đại học hay phòng nghiên cứu danh tiếng thường nhận doctor mới với hơn chục bài báo. Trung bình một giáo sư trẻ mới ra trường trong ngành khoa học máy tính có đến khoảng 3-5 journal papers và cả chục conference papers.

Dĩ nhiên số lượng là thứ yếu, chất lượng mới quan trọng. Một công trình chất lượng cao sẽ được nhiều người biết đến rất sớm, và có thể nói không ngoa là nó quan trọng hơn cả trăm bài báo dạng ... "bổ củi". (Bổ củi là tính từ dân gian trong giới khoa học Việt
Nam để chỉ các bài báo thường thường bậc trung, ai làm mãi rồi cũng xong.)

Ðối với Ph.D ở Mỹ thì điểm học trung bình khi học Ph.D hầu như không mang ý nghĩa gì cả, ngoại trừ điểm tối thiểu để có thể được tiếp tục học, khoảng chừng 3.3 đến 3.5 trên 4.0, tùy theo trường. Số lượng và chất lượng các bài báo và các công trình nghiên cứu khác (một ứng dụng máy tính chẳng hạn) mới là tiêu chí đánh giá Ph.D. Không có chuyện người ta xếp loại Ph.D trung bình, yếu, giỏi, khá, vân vân. Lý do chính là: làm chuyện này hầu như là vô vọng. Ai có đủ thẩm quyền và thời gian để đánh giá. Kể cả giáo sư hướng dẫn chưa chắc đã biết hết về phân ngành mà sinh viên của mình làm, huống gì người ngoài. Có rất nhiều công trình đăng báo vài năm hoặc vài chục năm sau người ta mới thấy hết giá trị của nó. Cũng có cả tỉ công trình lúc mới đăng thì ai cũng xúm vào khen, nhưng vài năm sau thì lặng tăm.

Dĩ nhiên có khá nhiều các công trình mà người trong ngành đọc biết ngay là "dỏm" hay "xịn". Nhưng vấn đề chính là không ai có thời gian xếp loại và định trị Ph.D. Ở Mỹ, kinh tế thị trường tương đối công bằng. Ph.D giỏi sẽ được đồng nghiệp biết đến, tìm được việc ở các trường đại học và phòng nghiên cứu danh tiếng, vân vân. Cũng có thể có Ph.D giỏi không tìm được việc, hoặc Ph.D dỏm "lọt lưới" cung cầu. Các trường hợp này đều là ngoại lệ hiếm hoi.

Lại nói thêm về đăng báo. Ta hãy nhớ mục tiêu (b) của Ph.D: đóng góp vào khối kiến thức của nhân loại. Ph.D mà không có bài báo nào thì có 10 Ph.D cũng hoàn vô nghĩa, theo nghĩa tinh khiết nhất của chữ Ph.D. Chí ít, Ph.D phải chia xẻ các thu lượm và nghiên cứu của mình với đồng nghiệp ở một vài hội nghị và journal danh tiếng nào đó.

Các nhà xuất bản khoa học ở phương Tây cũng làm kinh tế. Có rất nhiều các hội nghị và journals hạng bét, bài vớ va vớ vẩn cũng đăng vào được. Chỉ có người trong ngành mới biết được hội nghị và journal nào có uy tín. Mà kể cả ở các nơi có uy tín này ta vẫn có thể tìm thấy các bài báo tồi.

Tóm lại, công việc "định trị Ph.D" hoàn toàn không đơn giản chút nào. Áp lực phải đăng báo đè rất nặng lên vai các gradudate students. Ngược lại, cảm giác công trình của mình được đồng nghiệp công nhận và đánh giá cao cũng rất tuyệt vời!

Trong 5, 6 năm đầu sau khi ra trường, bất kể công việc là giáo sư hay nghiên cứu viên, áp lực viết báo và xin tiền làm nghiên cứu còn nặng hơn khi còn là sinh viên nữa.

(Ở đây ta loại trừ các trường hợp người ta chỉ muốn có Ph.D để theo đuổi nghề giảng viên (lecturer) nào đó. Có lẽ phải khẳng định rằng mục tiêu này cũng cao quí như các mục tiêu "cạnh tranh khắc nghiệt" khác.)

Nếu Ph.D trẻ không khẳng định được mình trong 5, 6 năm đầu tiên này thì thường là sẽ không giữ được công việc của mình. Có lẽ bạn đọc cũng có thể tưởng tượng được áp lực này nặng như thế nào. Các bài báo đều là các công trình sáng tạo mà trước đó chưa có ai làm, chưa có ai nghĩ ra (chí ít là về nguyên tắc). Làm thế nào mà ai đó có thể đảm bảo một năng suất sáng tạo nhất định trong một thời gian dài như vậy? Có đáng bỏ ngần ấy thời gian và công sức cho một mục tiêu mà phần thưởng về cả kinh tế, tinh thần, triết học, sức khỏe đều khá mập mờ?

3. Tại sao lại học Ph.D? Có nên học Ph.D không?

Ta thử ghi ra đây một phần nhỏ các lý do:


a) Bạn bè đều đi nước ngoài học sau đại học.
b) Ðược xã hội nể trọng, oách ra phết.
c) Ðể học được kiến thức tiên tiến.
d) Không rõ lắm. Từ bé học đã giỏi, thì cứ tiếp tục học.
e) Có lẽ là con đường duy nhất để cải thiện đời sống gia đình và cá nhân.
f) Ðể mở tầm mắt ra những chân trời mới.
g) Ðể sau này về làm giáo sư đại học.
h) Ðể được làm nghiên cứu khoa học.
i) Ðể thay đổi thế giới quan.
......
z) Tất cả các lý do trên.

Và z phẩy) Không làm Ph.D thì làm gì?

Ðối với đa số gradudate students và graduate-students-tương-lai thì câu trả lời là một tập con khá lớn của vài tá câu trả lời mà ai cũng có thể nghĩ ra.

Ta hãy thử phân tích vài chọn lựa quan trọng nhất.

Làm Ph.D để mở mang kiến thức. Ðây là một mục tiêu rất quan trọng và mang tính cá nhân. Mark Twain từng nói: "đừng để trường lớp cản trở con đường giáo dục của bạn" (Don't let school get in the way of your education). Trường lớp không phải là con đường duy nhất đến
Rome của tri thức. Tuy vậy, trong hoàn cảnh lạc hậu của một nước thế giới thứ ba như Việt Nam ta, thì ra nước ngoài học thêm là con đường hữu lý.

Câu hỏi chính mà ta nên đặt ra là chỉ nên học M.S thôi, hay là học cả Ph.D. Chỉ về kiến thức mà nói, thì hai năm M.S cũng đủ cho một sinh viên thông minh sau đó tự học. Làm Ph.D cũng đa phần là tự học thôi.

Làm Ph.D để có một cuộc sống tốt đẹp hơn, được xã hội nể trọng hơn; vì bạn bè ai cũng học Ph.D; có bằng Ph.D rất oách; từ bé đã học giỏi thì cứ tiếp tục học; vân vân.

Một Ph.D thực thụ sẽ cho bạn biết rằng các lý do loại này đều là sai lầm to lớn! Tôi hoàn toàn không có ý định "giảng đạo" về chọn lựa cá nhân của ai. Tôi cũng không nói động cơ "hám bằng cấp" hay "oai oách" là sai trái. Ðó là chọn lựa của từng cá nhân. Ðiểm tôi muốn nói là các động cơ loại này sẽ không thể giúp sinh viên hoàn thành tốt việc học Ph.D. Việc hay so sánh mình với bạn bè và người khác sẽ tạo nên áp lực tinh thần không thể chịu nổi trong khi học. Yêu thích "tiếng tăm" cũng vậy. "Học giỏi", theo nghĩa ở ta, là thi thố điểm cao và "nhai lại" những gì được dạy, cho nên học giỏi chưa chắc đã liên quan mấy đến khả năng sáng tạo - khả năng sống còn của Ph.D.

Từ khóa dẫn đến thành công của sinh viên Ph.D phải là “đam mê". Ðam mê học hỏi và sáng tạo trong một phân ngành nhất định! Trừ những người thật sự xuất chúng thì đa số chúng ta sẽ không thể làm thành công Ph.D ở một ngành nào đó chỉ vì "xã hội cần nó", hay "nó kiếm ra tiền".

Nếu chỉ đam mê học hỏi không thôi thì cũng không đáng bỏ ra ngần ấy thời gian để làm Ph.D. Ta hoàn toàn có thể làm M.S rồi tự đọc, tự học thêm.

Tất cả các thành quả như chức vụ, danh tiếng, oai oách, vân vân đều phải, và nên, là sản phẩm phụ của quá trình theo đuổi nỗi đam mê sáng tạo và mở mang tri thức này.

Ðấy là nói về "động lực" học Ph.D. Thế còn "khả năng" thì sao? Quá trình học Ph.D lên xuống như hình sin. Sẽ có bao nhiêu trở ngại kinh tế, tinh thần phải vượt qua. Một trong những trở ngại lớn nhất là: sau một vài thất bại trong nghiên cứu, các sinh viên sẽ phải tự hỏi "ta có đủ khả năng làm Ph.D không nhỉ?"

Ðam mê và khả năng tạo thành cái vòng luẩn quẩn. Ta có xu hướng đam mê cái mà ta giỏi, và ta thường xuất sắc ở công việc mà ta đam mê. Nhảy vào được cái vòng này là hành trình cá nhân. Có lẽ không ai trả lời thay ta được.

4. Phụ huynh: xin đừng gây áp lực tâm lý

Không ít các bậc phụ huynh mà tôi được dịp quan sát đặt rất nhiều kỳ vọng vào con em mình về con đường hàn lâm. Họ đầu tư tiền bạc và thời gian, nuôi niềm hy vọng ngày nào đó sẽ có một "trạng nguyên" vinh quy bái tổ, nở mày nở mặt với hàng xóm láng giềng và bè bạn. Chuyện này có ở tất cả các học bậc, không riêng gì Ph.D. Tuy vậy, áp lực ở Ph.D lớn hơn khá nhiều vì graduate students sẽ phải cạnh tranh với các sinh viên xuất sắc trên toàn thế giới.

Tôn trọng tri thức và học tập là điều tốt, và bằng cấp là một thước đo tương đối chính xác của tri thức. Nhưng nó không phải là thước đo duy nhất. Ðó là chưa nói đến các câu hỏi như: đạt được tri thức loại gì thì mới được coi là "thành nhân"? Khó mà có thể đo lường xem một Ph.D và một anh đạp xích lô ai có "đóng góp" nhiều hơn cho xã hội, hay ai "hạnh phúc" hơn ai, theo bất kỳ nghĩa nào của các từ này. Có một ranh giới rất bé giữa "tôn trọng tri thức" và "hám bằng cấp".

Hy vọng tôi đã hay sẽ thuyết phục được bạn rằng Ph.D cũng thượng vàng hạ cám. Một Ph.D về khoa học máy tính chẳng hạn, nếu làm nghiên cứu về một phân ngành chẳng ai quan tâm, đăng vài bài báo ở các chỗ linh tinh, thì sẽ từ từ xa rời dòng chảy chính của tri thức nhân loại. Có không ít Ph.D về khoa học máy tính lập trình không ra hồn, thua hẳn một kỹ sư thông thường, chính là vì lý do này.

Tôi lại triết lý 3-xu rồi. Ðiều tôi muốn nói là niềm "hy vọng" của các bậc phụ huynh tạo áp lực cực lớn ảnh hưởng đến kết quả học tập và nghiên cứu của sinh viên. Trong khi chọn lựa nghề nghiệp tương lai đáng lẽ nên là chọn lựa cá nhân!

5. Ðạt được Ph.D chỉ là bước đầu

Còn khá nhiều điểm khác tôi muốn nói, nhưng bài đã dài. Lấy Ph.D chỉ là bước đầu rất nhỏ của một nghề nghiệp, cũng như bao nhiều nghề nghiệp khác. Có Ph.D có thể đồng nghĩa với những phần thưởng đáng quí về kinh tế và tinh thần về cả mặt xã hội lẫn cá nhân, nhưng bù lại cái giá phải trả về mọi mặt cũng cao không kém. "Nghề" Ph.D chẳng cao quí hơn nhiều nghề khác, mà thời gian và công sức bỏ ra lại nhiều hơn khá nhiều.

Cuộc sống và các chọn lựa cá nhân lẽ dĩ nhiên là phức tạp. Tôi hy vọng qua bài viết này các bạn trẻ có thể có một cái nhìn và suy nghĩ cẩn trọng hơn trước khi theo đuổi "con đường đau khổ" này. Ta không thể theo nó chỉ vì các ảo tưởng danh tiếng, bằng cấp và tiền bạc. Ðầu tư như vậy không có lãi!

Một trong những điều kiện cần cho nghề này là khả năng theo đuổi nỗi đam mê nghiên cứu và sáng tạo trong một thời gian dài. Bằng Ph.D chỉ là một bước cỏn con trong hành trình chông gai nhưng thú vị này. Nó hoàn toàn không phải là con đường duy nhất.

Ngô Quang Hưng

Vấn đề đào tạo tiến sĩ: kinh nghiệm từ Australia

Nguyễn Văn Tuấn

Tin tức được đưa lên báo chí từ Hội nghị hiệu trưởng các trường phía Nam toàn là những tin làm sốc người đọc. Những đề án nghiên cứu cấp tiến sĩ cười ra nước mắt và tầm thường đến nổi Bộ trưởng Nguyễn Thiện Nhân phải thốt lên “Bằng tiến sĩ không phải vật trang sức đến những thiên vị trong việc thẩm định luận án làm cho những ai quan tâm đến nền giáo dục đại học ở nước nhà phải ngao ngán lắc đầu. Thêm vào đó là những lem nhem về nghiên cứu khoa học, đạo văn, mướn người viết luận án, v.v… liên tục được nhắc đến trên báo chí cho thấy nền học thuật trong nước gần như trong tình trạng báo động.

Theo dõi tình hình và tìm hiểu cách tổ chức đào tạo tiến sĩ ở trong nước trong thời gian qua, tôi thấy cách làm của Việt Nam có phần quá khác với nước ngoài, hay nói thẳng như giáo sư Hoàng Tụy là làm khoa học chẳng theo chuẩn mực quốc tế. Trong hai bài viết trước đây, tôi đã bàn qua mục đích của việc theo học và đào tạo tiến sĩ và giới thiệu các tiêu chuẩn cho một học vị tiến sĩ (Tạp chí hoạt động khoa học, số tháng 8/2006). Ở đây, tôi muốn nhân cơ hội bàn thêm về điều kiện nhân lực và cơ sở vật chất để đào tạo tiến sĩ qua kinh nghiệm đào tạo ở Australia mà người viết đã từng tham gia đào tạo từ 10 năm qua.

Ở Australia, qui trình đào tạo một tiến sĩ bắt đầu bằng một đề án. Các nghiên cứu sinh hội đủ điều kiện theo học tiến sĩ (như phải có bằng cử nhân hạng danh dự, hay có bằng thạc sĩ và có trải qua nghiên cứu) phải viết một đề cương nghiên cứu trong vòng 2 trang, trong đó nói rõ mục tiêu nghiên cứu là gì, phương pháp ra sao, và kết quả kì vọng là gì. Đề cương sẽ được đệ trình cho một trung tâm đào tạo (cụm từ “trung tâm” tôi dùng ở đây là chỉ các viện nghiên cứu và trường đại học), và ở đây hội đồng khoa học sẽ gửi đề cương cho ba chuyên gia để thẩm định xem đề án nghiên cứu có thể hiện một đóng góp mới vào khoa học hay không, và tính khả thi của nghiên cứu ra sao. Dựa vào thẩm định và đề nghị của ba chuyên gia này, hội đồng khoa học sẽ quyết định nhận hay từ chối đề án nghiên cứu của thí sinh. Ở viện Garvan (và vài trung tâm đào tạo nổi tiếng khác) chúng tôi có chính sách tiếp nhận nghiên cứu sinh vào làm việc một thời gian từ 3 tháng đến 1 năm để xem triển vọng học hành, trước khi chấp nhận cho theo học tiến sĩ.

Ở Australia, đào tạo tiến sĩ chủ yếu là nghiên cứu dưới sự hướng dẫn của một giáo sư hay nhà khoa học hội đủ điều kiện hướng dẫn. Thời gian đào tạo tối thiểu là 3 năm, nhưng thường là 4 năm. Hình thức là nghiên cứu toàn thời (full-time), chứ không bán thời (part-time) hay “đào tạo từ xa”. Trong thời gian này, nghiên cứu sinh phải chứng tỏ mình có những kiến thức cơ bản về khoa học và những kiến thức chuyên sâu về lĩnh vực nghiên cứu mà thí sinh theo đuổi, phải am hiểu các tài liệu nghiên cứu cần thiết về lĩnh vực chuyên môn, phải có khả năng cập nhật hóa kiến thức cũng như tất cả những phát triển mới, phải chứng tỏ kĩ năng phát hiện vấn đề hay đặt câu hỏi có ý nghĩa cho nghiên cứu chuyên ngành của mình, phải làm chủ được kĩ năng nghiên cứu, phải chứng tỏ đã đạt được những kĩ năng về truyền đạt thông tin bằng miệng và viết, v.v... Nghiên cứu sinh cũng được tạo điều kiện để tham dự và trình bày nghiên cứu tại các hội nghị chuyên ngành cấp quốc gia, và hội nghị quốc tế ít nhất là 1 lần trong quá trình đào tạo.

Việc chọn người hướng dẫn luận án cũng rất quan trọng. Không phải ai có bằng tiến sĩ cũng có thể hướng dẫn nghiên cứu sinh tiến sĩ. Ở Australia, những người có quyền hướng dẫn nghiên cứu sinh tiến sĩ là những giáo sư hay nhà nghiên cứu có một chương trình nghiên cứu, có kinh nghiệm trong nghiên cứu khoa học, được đồng nghiệp trong và ngoài nước công nhận. Có sẵn hay đang điều hành một chương trình nghiên cứu là tiêu chuẩn chứng tỏ người hướng dẫn đã ở vị trí độc lập và có định hướng rõ ràng trong khoa học. Cụm từ “có kinh nghiệm nghiên cứu” ở đây có nghĩa là người hướng dẫn phải là người từng có hoạt động nghiên cứu khoa học ở bình diện quốc tế, và hoạt động này được “đo lường” bằng số bài báo khoa học đã công bố trong các tập san khoa học quốc tế (ít nhất là 10 bài). Ngoài ra, người hướng dẫn lí tưởng phải là người “có tên tuổi” trên trường quốc tế, tức là đã từng được mời giảng, hay từng có giải thưởng quốc tế, hay được mời làm chủ tọa trong các hội nghị quốc tế, hay điều hành, hay từng hướng dẫn các nhà nghiên cứu hậu tiến sĩ.

Có khi cần phải mời người hướng dẫn từ một trung tâm khác, kể cả ngoại quốc, để làm người hướng dẫn nếu vài khía cạnh của đề tài nghiên cứu nằm ngoài phạm vi chuyên môn của người hướng dẫn chính.

Không phải bất cứ trường đại học nào hay viện nghiên cứu nào cũng có quyền đào tạo tiến sĩ. Những trung tâm được phép đào tạo tiến sĩ phải có những chương trình nghiên cứu khoa học rõ ràng, có đầy đủ cơ sở vật chất, có hệ thống kiểm tra việc học hành nghiêm chỉnh, và có nhân sự có khả năng hướng dẫn nghiên cứu sinh tiến sĩ.

Ở Australia, cũng như ở các trường đại học Tây phương khác, luận án tiến sĩ chỉ là một trong nhiều tiêu chuẩn để tốt nghiệp. Khác với các đại học Âu châu, các đại học Australia không quá đặt nặng vào luận án, mà đặt nặng vào các bài báo khoa học mà nghiên cứu sinh đã công bố trên các tập san quốc tế. Ở Viện Garvan, chúng tôi khuyến khích nghiên cứu sinh công bố ít nhất là 3 bài báo trước khi viết luận án tiến sĩ. (Có nghiên cứu sinh phải tiêu ra 6 năm trời nghiên cứu trước khi viết luận án tiến sĩ.) Sở dĩ có điều lệ bất thành văn này là vì chúng tôi nghĩ rằng một luận án dù có giá trị khoa học cách mấy cũng chỉ lưu lại trên các kệ sách của trường đại học hay được lưu hành trong một số rất ít người liên quan, và cho dù luận án đã được duyệt thì vẫn chưa thể nói là luận án tốt được. Vì không lưu hành rộng rãi, cho nên ít ai biết luận án đó có giá trị ra sao hay chỉ là những sao chép ý tưởng của người khác (như tình trạng hiện nay ở nước ta). Vì thế, chúng tôi xem việc công bố nghiên cứu trên các tập san quốc tế, nơi được mọi người thẩm định và soi mói cẩn thận, là một cách “thử lửa” tốt nhất về chất lượng nghiên cứu của thí sinh.

Luận án được soạn thảo dựa vào những bài báo đã công bố. Ở các đại học Âu châu, người ta tổ chức các buổi “bảo vệ luận án”, nơi mà nghiên cứu sinh trình bày luận án và có người phản biện hay chất vấn. Ở Australia, hình thức bảo vệ luận án được xem là thiếu hiệu quả, vì không thể nào đánh giá một luận án tiến sĩ trong vòng một hay hai giờ đồng hồ. Do đó, các đại học Australia không tổ chức những buổi bảo vệ luận án, nhưng trước khi đệ trình luận án và trong quá trình theo học thí sinh phải qua ít nhất là ba lần “khảo thí” trong các buổi seminar chuyên ngành. Ngoài ra, thí sinh còn phải trình bày và bảo vệ nghiên cứu của mình trong các hội nghị quốc gia và quốc tế. Tuy nhiên, ở Australia có điều lệ thẩm định luận án (cho dù luận án dựa vào những bài báo đã công bố), và việc thẩm định này do ba chuyên gia ngoài trường đại học (và ít nhất một trong 3 người này phải từ một đại học ngoại quốc). Thời gian bình duyệt luận án kéo dài từ 3 tháng đến 6 tháng, và thí sinh phải trả lời tất cả các câu hỏi của các chuyên gia trước khi hội đồng khoa bảng quyết định trao học vị tiến sĩ hay không.

Điểm qua phương cách đào tạo trên và đối chiếu với tình trạng trong nước, phải nói rằng chương trình đào tạo tiến sĩ của các trường đại học Việt Nam chưa theo các chuẩn mực quốc tế, nếu không muốn nói là còn quá nhiều bất cập. Có nghiên cứu sinh tiến sĩ từ Việt Nam sang Australia tự hào tuyên bố rằng anh ta chỉ mướn các công ti tư vấn phân tích và viết luận án cho anh ta, vì anh ta bận bịu với công việc quá! Nếu ai còn nghi ngờ thì chỉ cần đọc qua các bài báo nghiên cứu y học ở trong nước sẽ thấy rất nhiều thiếu sót và sai sót. Rất nhiều nghiên cứu mà ý tưởng thì không mới, phương pháp nghiên cứu quá nhiều sai sót, báo cáo quá sơ sài, và giá trị khoa học chỉ có thể nói là dưới trung bình. Ấy thế mà cũng có nhiều người tốt nghiệp với học vị tiến sĩ từ những bài báo khoa học như thế! Điều đáng ngại hơn là những “tiến sĩ” này sẽ là những người thầy cô tương lai hướng dẫn các nghiên cứu sinh khác.

Có lẽ vì những bất cập mang tính dây chuyền trong thời gian qua mà ngày nay chúng ta có một nhóm [không ít] nhà nghiên cứu chưa có kiến thức chuyên sâu về lĩnh vực nghiên cứu mình theo đuổi, chưa am hiểu các tài liệu nghiên cứu cần thiết về lĩnh vực chuyên môn, thiếu kĩ năng phát hiện vấn đề hay đặt câu hỏi có ý nghĩa cho nghiên cứu. Chính vì thế mà biết bao nhiêu tiến sĩ ở nước ta không thảo nổi một đề án nghiên cứu (chứ chưa nói đến nghiên cứu).

Để khắc phục tình trạng này, tôi đề nghị các cơ quan chức năng (như Bộ Giáo dục, Bộ Khoa học, công nghệ và môi trường, Bộ Y tế, v.v…) nên tiến hành một số việc như sau:

Thứ nhất là rà soát lại xem trường đại học hay trung tâm nào hội đủ điều kiện đào tạo tiến sĩ. Hiện nay, rất nhiều trường đại học và viện ở trong nước đều có chương trình đào tạo tiến sĩ, nhưng có nhiều nơi cơ sở vật chất còn quá nghèo nàn, và thậm chí chưa có kinh nghiệm nghiên cứu khoa học tầm quốc tế. Cho nên, có lẽ chính phủ nên đề ra những tiêu chuẩn cụ thể và dựa vào những tiêu chuẩn đó để trao chức năng đào tạo tiến sĩ. Tôi đoán nếu làm theo các chuẩn mực quốc tế, thì con số trung tâm đào tạo tiến sĩ không quá 20. Tuy nhiên, chúng ta cần chất hơn là cần lượng. Cần phải mạnh dạn ngưng ngay các chương trình đào tạo tại các trung tâm nào không đủ tiêu chuẩn. Cũng có thể hợp tác với các trung tâm nước ngoài, đặc biệt là ở các nước Âu Mĩ, để đào tạo và nghiên cứu.

Thứ hai là nên phát triển hay xem xét các tiêu chuẩn mà các trung tâm đào tạo nước ngoài đã áp dụng để trao quyền cho các giáo sư hay nhà nghiên cứu nào có thể làm hướng dẫn nghiên cứu sinh tiến sĩ. Cần nhấn mạnh đến tiêu chuẩn quốc tế, bởi vì nói cho cùng, học vị tiến sĩ là một “giấy thông hành” làm nghiên cứu khoa học chuyên nghiệp. Nói đến nghiên cứu khoa học là nói đến tính quốc tế của nó, do giá trị của nghiên cứu khoa học không giới hạn trong một quốc gia nào. Nói đến “giấy thông hành” cũng là nói đến gia trị pháp lí quốc tế của học vị tiến sĩ. Người hướng dẫn phải được công nhận trên trường quốc tế, để cho nghiên cứu sinh của họ có thể tìm cơ hội thực tập hậu tiến sĩ ở bất cứ nước nào, chứ không chỉ tại Việt Nam.

Thứ ba là nên xem xét và đề ra những tiêu chuẩn chung cho một học vị tiến sĩ. Hiện nay, hình như chưa có đại học nào đề ra những tiêu chuẩn cho một học vị tiến sĩ, và do đó, chất lượng nghiên cứu sinh rất khác nhau giữa các trung tâm đào tạo. Thật ra, cũng rất khó mà đề ra những tiêu chuẩn cụ thể, vì tùy thuộc vào ngành nghề chuyên môn, nhưng có thể dựa vào một số tiêu chuẩn ở nước ngoài mà tôi đã trình bày trong một tạp chí khác mới đây để phát triển cho trường hợp ở Việt Nam.

Thứ tư là nên xem xét lại qui trình phản biện. Như phản ảnh của vài đại biểu về tình trạng thiên vị trong việc thẩm định luận án, vấn đề thiên vị ở đâu cũng có, nhưng khác nhau là ở chỗ minh bạch. Ở Australia và Mĩ, người hướng dẫn có trách nhiệm phải đề cử ít nhất là 4 chuyên gia thẩm định luận cho Hội đồng khoa bảng của trường đại học. Nhưng bốn người này phải được sự chấp nhận của nghiên cứu sinh, tức trước khi đề cử người hướng dẫn phải bàn thảo với nghiên cứu sinh. Tuy nhiên, Hội đồng khoa bảng chọn ai cụ thể thì cả người hướng dẫn và nghiên cứu sinh đều không có quyền biết. Việc làm này đảm bảo tính công bằng cho nghiên cứu sinh. Tôi đề nghị ngoài các giáo sư trong nước, cần mời một hay hai giáo sư hay nhà khoa học nước ngoài tham gia vào hội đồng thẩm định luận án. Sự có mặt của đồng nghiệp nước ngoài còn là một cách phát biểu về sự khách quan của quá trình chấm luận án.

Học vị tiến sĩ là một học vị cao nhất trong hệ thống giáo dục đại học. Ở các nước phương Tây, xã hội kính trọng những người có học vị tiến sĩ và gọi họ bằng danh xưng “Doctor”. Chương trình huấn luyện tiến sĩ là nhằm mục đích đào tạo một đội ngũ nhà khoa học có trình độ chuyên môn cao cần thiết cho việc phát triển khoa học và công nghệ của một nước. Những người này đóng vai trò then chốt trong nền khoa học, và là nguồn cung cấp nhân lực khoa bảng cho các trường đại học của nước nhà. Do đó, có một chương trình đào tạo và huấn luyện có chất lượng cao là một bước đầu cực kì quan trọng trong việc chấn chỉnh và phát triển giáo dục đại học ở trong nước. Hi vọng những chia sẻ kinh nghiệm và đề nghị trên đây sẽ góp một phần vào định hướng nâng cao chất lượng đào tạo tiến sĩ ở Việt Nam.

Nước ta đang trên đà hội nhập và gia tăng giao dịch, kể cả quan hệ hợp tác khoa học, với thế giới bên ngoài, nhất là thế giới Tây phương. Các nhà khoa học tương lai của ta cần phải được đào tạo và huấn luyện qua một chương trình có qui củ quốc tế, mà trong đó họ được trang bị bằng những tri thức và kĩ năng chuyên môn không những mới nhất, mà còn phải sâu nhất, để sao cho họ không cảm thấy mặc cảm, mà còn tự hào cầm trong tay một học vị tiến sĩ từ Việt Nam.

Về học vị tiến sĩ

Nguyễn Văn Tuấn

Trong một bài viết trước, tôi có viết rằng học vị tiến sĩ (Doctor of Philosophy, thường viết tắt là Ph.D) là một văn bằng cao nhất trong hệ thống văn bằng đại học. Xã hội kính trọng những người có học vị tiến sĩ và gọi họ bằng danh xưng “Doctor”. Ở nước ta ngày xưa, họ là những “ông nghè” được xã hội rất trân trọng.

Ngày nay ở nước ta, có nhiều sinh viên có ý định theo học chương trình tiến sĩ. Đó là một phát triển đáng mừng, vì các vị tiến sĩ là những người đóng vai trò rường cột cho nền khoa học nước nhà, và là một lực lượng giảng dạy tương lai. Thế nhưng có vài dấu hiệu cho thấy động cơ của việc theo học tiến sĩ hình như không phải để đi tìm sự thật khoa học hay mở mang trí tuệ, mà chỉ để có cái danh “tiến sĩ” trước tên mình. Một số khác thì vì lí do thăng quan tiến chức nên tìm mọi cách theo học và “lấy cho được” học vị tiến sĩ. Thiết tưởng đây là những ngộ nhận nguy hiểm về học vị tiến sĩ cần phải được giải thông.

Trong bài viết này tôi sẽ nêu ra một số câu hỏi để thí sinh trả lời xem mình có phải là người thích hợp và xứng đáng để theo học tiến sĩ hay không.

Những câu hỏi thí sinh cần hỏi trước khi đệ đơn xin học tiến sĩ

Thứ nhất, mình có muốn theo đuổi sự nghiệp nghiên cứu khoa học không? Trước khi đệ đơn xin theo học chương trình tiến sĩ, thí sinh nên cẩn thận cân nhắc mục tiêu lâu dài của mình. Bởi vì để có được học vị tiến sĩ thí sinh phải làm nghiên cứu; do đó, thí sinh phải tự hỏi: nghiên cứu khoa học có phải là sự nghiệp mình muốn dấn thân hay không? Nếu câu trả lời là “muốn” thì học vị tiến sĩ là một “giấy thông hành” cho con đường tiến thân. Cố nhiên cũng có một số người tham gia nghiên cứu khoa học dù họ không có học vị tiến sĩ, nhưng đây là những trường hp ngoại lệ. Nếu câu trả lời là “không”, thì học vị tiến sĩ không phải dành cho thí sinh.

Thứ hai, mình có muốn theo đuổi sự nghiệp khoa bảng hay không? Học vị tiến sĩ là một cái “chứng từ” để bước vào hay được “kết nạp” vào sự nghiệp khoa bảng (academic career). “Khoa bảng” ở đây được hiểu là giảng dạy đại học và nghiên cứu khoa học. Cố nhiên, vẫn có người có thể trở thành giáo sư dù không có học vị tiến sĩ, nhưng cơ hội tiến thân trong các nấc thang khoa bảng ngày nay cho những cá nhân như thế không mấy cao. Nhiều trường đại học lớn trên thế giới đòi hỏi các giảng viên và giáo sư hay các nhà nghiên cứu phải có học vị tiến sĩ. Tại sao? Tại vì họ muốn đảm bảo trường đại học có đầy đủ chuyên gia để giảng dạy các môn học cấp cao và bắt buộc các chuyên gia này phải làm nghiên cứu khoa học. Phần lớn giáo sư đại học có học vị tiến sĩ, nhưng không phải ai có bằng tiến sĩ đều có thể trở thành giáo sư.

Nếu mục tiêu của thí sinh là dấn thân vào quản trị thương trường, kĩ nghệ và khoa học (như muốn làm giám đốc doanh nghiệp, giám đốc các cơ sở khoa học) hay các chức vụ hành chính, hay các chức vụ mang tính quản lí trong hệ thống chính phủ thì thí sinh không nên theo học chương trình tiến sĩ (mà nên theo học chương trình thạc sĩ quản trị kinh doanh hay quản trị hành chính, MBA – Master of Business Administration), bởi vì cốt lõi của học vị tiến sĩ (và cũng là khía cạnh dùng để phân biệt học vị tiến sĩ với các học vị đại học khác) là nghiên cứu khoa học, không phải quản trị. Tôi biết ngày nay có đại học đưa ra chương trình huấn luyện Tiến sĩ quản trị hành chính (Doctor of Business Administration), nhưng mục tiêu vẫn là đào tạo nhà nghiên cứu và giáo sư.

Tự đánh giá mình: có hội đủ điều kiện để trở thành tiến sĩ hay không?

Thật là khó tự đánh giá khả năng của mình, nhưng những đề mục sau đây có thể giúp cho thí sinh tự hỏi và trả lời:

· Khả năng học vấn. Trong khi theo học chương trình cử nhân, thí sinh thường hay đạt điểm cao hay thường đứng đầu lớp hay đứng sau cùng trong lớp? Kì thi trung học thí sinh đạt bao nhiêu điểm? Ở các đại học Úc, thí sinh theo học tiến sĩ thường có bằng cử nhân hạng danh dự (honours) hay có bằng thạc sĩ.

· Thời gian. Thí sinh có sẵn sàng giải quyết một dự án nghiên cứu hay một vấn đề khó khăn mà mình chưa bao giờ làm trước đây hay không? Chương trình học tiến sĩ thường kéo dài nhiều năm (tối thiểu là 3 năm, thường là 4-6 năm) với lao động cật lực. Thí sinh có sẵn sàng hi sinh và bỏ qua các hoạt động và sinh hoạt thường ngày khác để theo đuổi nghiên cứu khoa học hay không?

· Sáng tạo. Khám phá trong nghiên cứu khoa học thường xảy ra khi (i) nhà nghiên cứu nghĩ ra một vấn đề mới; hay (ii) nhà nghiên cứu thẩm định một vấn đề cũ bằng một phương pháp mới. Vì thế trước khi theo học tiến sĩ thí sinh nên tự xét mình có cảm hứng giải quyết vấn đề (problem solving) hay không? Thí sinh đã chuẩn bị cho những kì “nặn óc”, động não và những suy nghĩ trừu tượng hay không? Thí sinh có thích học toán học cao cấp không?

· Tính tò mò cao độ. Nghiên cứu đòi hỏi tính tò mò, nghi ngờ, và chất vấn. Có khi nào thí sinh cảm thấy như bị cưỡng bách để tìm hiểu cho được thế giới chung quanh và tìm hiểu sự việc hoạt động hay xảy ra như thế nào? Tính tò mò làm cho nghiên cứu khoa học dễ dàng hơn. Thí sinh có đáp ứng được những tò mò riêng tư của mình hay không?

· Thích ứng. Kinh nghiệm người viết bài này cho thấy rất ít thí sinh sẵn sàng chuẩn bị cho một chương trình học tiến sĩ. Họ cảm thấy chương trình học hoàn toàn khác biệt với các chương trình cử nhân và thạc sĩ. Phần lớn thí sinh cảm thấy như mình bước vào một thế giới mới, một thế giới mà cái gì cũng có vẻ bất định, và hình như chẳng ai biết được câu trả lời. Vì thế, câu hỏi thí sinh cần phải tự trả lời là: mình có khả năng thích ứng với một môi trường như thế hay không? Thí sinh có chịu đựng nỗi tình huống mà hành trình đi tìm lời giải đáp cho vấn đề dù không ai biết chắc câu hỏi chính xác là gì hay không?

· Năng động. Đến lúc thí sinh xong chương trình cử nhân hay thạc sĩ, thí sinh thường quen với hệ thống thang điểm trong mỗi kì học hay kì thi. Trong một chương trình huấn luyện tiến sĩ, thí sinh không có thi cử như thời cử nhân, việc nghiên cứu cũng ít khi nào được phân chia một cách rành rọt, giáo sư hướng dẫn không phải lúc nào cũng bên cạnh để chỉ bảo từng việc, và thí sinh không nhận điểm gì cả. Thí sinh có năng động để tự mình làm việc với sự hướng dẫn và giám thị tối thiểu của giáo sư hay không?

· Cạnh tranh. Khi theo học tiến sĩ, thí sinh phải chấp nhận cạnh tranh cùng các thí sinh khác, không những tại trường mình đang nghiên cứu, mà còn cạnh tranh với các thí sinh khác trên thế giới. Cạnh tranh để hoàn tất nghiên cứu trước, để được giải thưởng, để được công bố nghiên cứu trước … Một luận án mà không có một giải thưởng nào hay không có một bài báo nào trên tập san khoa học thế giới là một luận án tầm thường. Thí sinh có sẵn sàng tham dự vào một cuộc thi đua như thế hay không? Trong vài ngành thực nghiệm, vì cạnh tranh, thí sinh phải làm việc ngày và đêm trong phòng thí nghiệm hay trong phòng máy tính (có khi đến 12 giờ khuya) để hoàn tất nghiên cứu trước “đối phương”. Thí sinh có sẵn sàng cho một cuộc chạy đua như thế không?

· Tính chín chắn. So với chương trình cử nhân và thạc sĩ, chương trình tiến sĩ là một chương trình không có cấu trúc chặt chẽ. Thí sinh có tự do để theo đuổi mục tiêu nghiên cứu của mình đề ra, tự do hoạch định việc làm hàng ngày cho chính mình, và tự do theo đuổi các ý tưởng khác (nhưng không thể bỏ qua mục tiêu của mình). Thí sinh có sẵn sàng chấp nhận trách nhiệm cho chính mình hay không? Sự thành công hay thất bại trong việc theo học tiến sĩ tùy thuộc một phần lớn vào thí sinh.

Một vài cảnh báo

Một số thí sinh theo học tiến sĩ vì những lí do và động cơ sai lầm. Điều này dẫn đến hiện tượng thí sinh cảm thấy thất vọng sau một thời gian theo học, vì yêu cầu lớn quá. Do đó, trước khi dấn thân vào chương trình học tiến sĩ, thí sinh cần phải nhận thức rõ ràng rằng:

· Học vị tiến sĩ không có nghĩa là sẽ tự động đem lại thanh thế hay uy danh cho cá nhân. Hầu hết các thí sinh đã đạt được văn bằng tiến sĩ đều cảm thấy tự hào về nỗ lực và kết quả của việc phấn đấu trong học hành nghiên cứu. Tuy nhiên, thí sinh phải hiểu rằng một khi tốt nghiệp tiến sĩ, thí sinh có thể làm việc với nhiều nhà khoa học khác cũng có bằng tiến sĩ. Học vị tiến sĩ mới chỉ là bước đầu vào nghiên cứu khoa học, nó chẳng đem lại uy danh cho người có học vị nếu người đó không có công trình nghiên cứu nào có giá trị.

· Học vị tiến sĩ không tự động nâng giá trị ý kiến của thí sinh. Nhiều người tin rằng một khi họ có văn bằng tiến sĩ trong tay, công chúng sẽ tự nhiên kính trọng ý kiến của họ. Niềm tin này hoàn toàn sai. Nhiều người có học vị tiến sĩ có thể am hiểu và uyên bác về một lĩnh vực chuyên môn hẹp nào đó, nhưng không phải là chuyên gia của mọi vấn đề khác. Sự kính trọng phải được chứng minh qua hành động và bản lĩnh của người phát biểu, chứ không tự động mà có được qua danh xưng “tiến sĩ”.

· Học vị tiến sĩ không phải là mục tiêu sau cùng trong học hành, nghiên cứu. Học vị tiến sĩ chuẩn bị thí sinh vào sự nghiệp nghiên cứu. Nếu thí sinh chỉ muốn có mảnh giấy để treo trên tường thì không nên theo đuổi học vị tiến sĩ. Sau khi tốt nghiệp tiến sĩ, thí sinh có cơ hội để so sánh thành quả của mình với các nhà khoa học khác. Thí sinh sẽ nhận thức rằng cái được “tính sổ” không phải là danh xưng hay học vị tiến sĩ, mà là nghiên cứu khoa học do chính thí sinh tiến hành và hoàn tất.

· Học vị tiến sĩ không bảo đảm thí sinh sẽ có công ăn việc làm ngay. Có khi ngược lại: sinh viên tốt nghiệp tiến sĩ có thể khó tìm việc làm hơn là sinh viên tốt nghiệp cửa nhân hay thạc sĩ, bởi vì như nói trên tiến sĩ là những nhà nghiên cứu. Một số công ti không muốn và không thích mướn những người với văn bằng tiến sĩ cho những việc không dính dáng vào nghiên cứu. Thêm vào đó là một khi nền kinh tế bị suy yếu, tất cả thành viên trong xã hội đều chịu chung số phận. Thật vậy, một số công ti giảm thiểu nghiên cứu trước khi giảm thiểu sản xuất, và tình trạng này có thể là một mối nguy cơ cho những người có văn bằng tiến sĩ.

· Học vị tiến sĩ không phải để gây ấn tượng trong gia đình hay bạn bè. Người thân trong gia đình và bạn bè thí sinh có lẽ rất hồ hởi và tự hào khi thí sinh vào học chương trình tiến sĩ, bởi vì họ nghĩ thí sinh sẽ trở thành một ông nghè, một “doctor” trong tương lai. Nhưng văn bằng tiến sĩ chỉ là giấy thông hành cho nghiên cứu, chứ không phải để lấy le với người thân, bạn bè hay với xã hội. Không phải lúc nào cũng đòi người khác phải gọi mình là ông / bà “tiến sĩ”.

· Học vị tiến sĩ không phải là cái cớ để thí sinh thử xem mình thông minh cỡ nào. Có một vài thí sinh nghĩ rằng học tiến sĩ là một thách thức và họ muốn chơi trò thách thức xem xem tri thức của mình cỡ nào. Rất tiếc, quan điểm này sai, bởi vì chương trình huấn luyện tiến sĩ không phải để thí sinh cân não hay để thử khả năng tri thức. Ngoại trừ thí sinh dành trọn thì giờ và dấn thân vào học hành để đỗ đạt, thí sinh sẽ không thể nào có được văn bằng tiến sĩ chỉ vì mình “thông minh”. Như nói trên, thí sinh phải làm việc nhiều giờ trong ngày, phải có khi thức đêm trong phòng thí nghiệm hay thư viện, phải chuẩn bị đương đầu với những thất bại, phải chuẩn bị động não để học cái mới và suy nghĩ cái mới.

· Học vị tiến sĩ không phải để kiếm nhiều tiền. Thí sinh tốt nghiệp tiến sĩ thực ra không có lương bổng cao hơn các thí sinh với bằng cử nhân hay người công nhân bình thường trong hãng xưởng. Xin nhắc lại: học tiến sĩ là để trở thành nhà nghiên cứu, nhà khoa học, và cái quan tâm đầu tiên của nhà khoa học là sự thật, chứ không phải sự giàu có về tiền bạc. Tất nhiên, có nhiều khi sự thật và khám phá cũng đem lại một nguồn tài chính lớn cho nhà nghiên cứu. Nhưng nói chung, đó không phải là mục tiêu để theo học tiến sĩ.

· Học vị tiến sĩ không có nghĩa là một lựa chọn tốt nhất trong đời. Cống hiến cho xã hội có nhiều cách và cuộc đời có nhiều lựa chọn, và học vị tiến sĩ chỉ là một trong số hàng trăm lựa chọn. Có lẽ thí sinh sẽ ngạc nhiên khi đọc câu phát biểu này, nhưng đó là một thực tế. Thật vậy, đối với nhiều thí sinh, học vị tiến sĩ có thể là một sự nguyền rủa! Thí sinh phải tự hỏi mình muốn làm người lãnh đạo trong những người có văn bằng thạc sĩ, hay là làm một nhà nghiên cứu tầm thường. Thí sinh phải biết và quyết định mình muốn gì, và nghề nghiệp nào sẽ kích khích mình nhiều nhất hay đem lại hạnh phúc cho mình nhất.

Vài điều tích cực về tiến sĩ

Mặc dù những cảnh báo trên là hoàn toàn sự thật và có thể xảy ra cho thí sinh, nhưng tôi phải công bằng mà nói rằng cũng có một vài “an ủi” cho thí sinh nào cảm thấy mình có đủ khả năng và đức tính để theo học tiến sĩ. Thứ nhất, thí sinh có thể tự hào rằng mình đã hoàn tất chương trình học, hoàn tất nghiên cứu, và được trao văn bằng tiến sĩ. Nếu thí sinh có khả năng và đam mê, sự nghiệp nghiên cứu khoa học có thể đem lại cho thí sinh nhiều phần thưởng vật chất và tinh thần có giá mà các ngành nghề khác không có được.

Thứ hai, trong khi theo học tiến sĩ hay sau khi tốt nghiệp, thí sinh có thể sẽ gặp gỡ và làm việc với những người thông minh nhất trên hành tinh này. Thí sinh sẽ tiếp cận và tiến dần đến những lí tưởng và ý tưởng không nằm trong tầm tay của mình, và để làm việc đó, thí sinh sẽ cảm thấy tri thức mình trưởng thành thêm. Thí sinh sẽ giải quyết nhiều vấn đề mình chưa bao giờ gặp trước đó. Thí sinh sẽ khám phá các khái niệm chưa bao giờ được nghe đến. Thí sinh sẽ phát hiện những nguyên lí có thể làm thay đổi xã hội và con người.

Thứ ba là lí tưởng sống của người làm nghiên cứu khoa học rất có ý nghĩa. (Tôi có thể nói lại câu này mà không sợ bị chê là “nói ngoa”.) Nói về niềm hân hoan trong nghiên cứu, có một “chân lí” mà có lẽ bất cứ nhà khoa học nào cũng đồng ý: trong các hoạt động của con người nghiên cứu khoa học là lẽ sống có ý nghĩa nhất. Tại sao nhà khoa học phải tiêu ra nhiều giờ trong phòng nghiên cứu, mài mò sách vở, bận tâm với từng con số, quan tâm đến từng biểu đồ, trong khi họ có thể tiêu thì giờ với gia đình để làm cỏ trong vườn, hay tiêu ra thì giờ với bè bạn trong quán cà phê, quán nhậu ?! Đúng là nhà khoa học cũng có thể có một cuộc sống gia đình như hàng triệu triệu người khác, tức là làm những việc trong gia đình như bao nhiêu người khác trên thế giới này, nhưng cái khác nhau là thay vì làm những việc đó, nhà khoa học có thể làm việc trong một phòng thí nghiệm, trong phòng máy tính, trong thư viện, bên giường bệnh với bệnh nhân, hay thậm chí trong chuồng … chuột, v.v… nơi mà họ có thể khám phá những điều thú vị nhất trên đời mà chưa có người nào biết đến. Có thể nói nghiên cứu khoa học là một niềm vui tuyệt đối. Còn gì vui hơn khi khám phá của mình đem lại lợi ích cho hàng triệu người trên thế giới, như khám phá vi khuẩn H. pylori của giáo sư Marshall, người vừa được giải Nobel y học vừa qua.

Mục đích thực và chính của việc học hành là để mở mang trí tuệ, trau dồi kiến thức, rèn luyện nhân cách, và làm người hữu ích cho xã hội. Bằng cấp không phải dùng để đo những kết quả trên, mà chỉ là những phân chia đẳng cấp khoa bảng rất tương đối. Bằng cấp, dù là học vị cao nhất như tiến sĩ, chỉ là một bước đầu trong hoạt động khoa học, và tự nó chưa nói đủ về khả năng chuyên môn của nhà khoa học. Tương tự, một học hàm cao nhất như giáo sư cũng không phản ánh chính xác được mức độ đóng góp vào kho tàng tri thức của nhân loại. Người trí thức chân chính chỉ nghĩ đến những đóng góp có giá trị nhằm đem lại phúc lợi thực sự cho nhân loại, và không bao giờ phụ thuộc vào học vị, học hàm hay các danh xưng phù phiếm để gây ảnh hưởng trong cộng đồng.

Hệ Thống Học Vị Và Học Hàm Khoa Học Ở Vài Nước Tây Phương

Nguyễn Văn Tuấn

Đối với sinh viên và giới khoa bảng, bằng cấp đại học hay học vị vừa là cứu cánh vừa là phương tiện. Là sinh viên đang miệt mài trong các trường đại học hay cao đẳng, mục tiêu và cũng là ước mơ thực tế nhất là được tốt nghiệp, được cấp mảnh giấy có ghi tên mình kèm theo một cụm từ phản ánh tầm cỡ học lực mà mình mới hoàn tất. Vì thế, bằng cấp là một phần thưởng cho sự học tập, một bằng chứng về khả năng chuyên môn. Hơn nữa, bằng cấp còn là một "giấy giới thiệu" để được kếp nạp vào các đoàn thể của những người có học (learned people), một "giấy thông hành" để được thu nhận vào nghiên cứu khoa học. Đối với người đang làm việc, bằng cấp là một phương tiện để tiến thân trong các nấc thang sự nghiệp. Đối với một quốc gia, số lượng dân với bằng cấp đại học là một chỉ số về trình độ dân trí, và một thước đo về sự phát triển kinh tế và ổn định xã hội.

Chưa có ai làm thống kê để biết có bao nhiêu loại bằng cấp trên thế giới, nhưng ai cũng đồng ý một điều là bằng cấp, đặc biệt là ở bậc đại học, cực kỳ phức tạp và phong phú. Chỉ riêng ở Mỹ, đã có ước đoán cho rằng các đại học Mỹ hàng năm cấp hơn 3000 loại bằng cấp khác nhau! Ngày nay, hàng năm chỉ riêng các trường đại học ở Mỹ cho ra trường khoảng 1,14 triệu cử nhân, 420 ngàn cao học và 18 ngàn tiến sĩ.

Với một số lượng bằng cấp khổng lồ và đa dạng như thế, chẳng trách nhiều người trong chúng ta rất dễ bị nhầm lẫn về tên gọi của chúng. Cộng thêm vào đó là những quảng cáo của nhiều người trên báo chí Việt ngữ, hoặc vô tình hoặc cố ý, làm cho vàng thau lẫn lộn. Nhiều tên bằng cấp đã xuất hiện trên mặt báo như "Cao học I", "Cao học II" (ở hải ngoại), "Tiến sĩ đệ tam cấp", "Phó tiến sĩ" và "Thạc sĩ" (ở trong nước). Vậy, những văn bằng này khác nhau như thế nào và chương trình huấn luyện ra sao? Bài viết này sẽ trình bày một cách khái quát hệ thống bằng cấp và chức vụ khoa bảng ở một vài nước Tây phương mà người viết đã có kinh nghiệm làm việc thực tế hay có tìm hiểu, với hy vọng là sẽ làm, hay góp phần làm, sáng tỏ được vài thắc mắc thầm kín mà tôi tin là nhiều đồng hương đã và đang có. Cố nhiên, vì tôi được đào tạo hay làm việc khoa học trong hệ thống giáo dục Anh, Úc và Mỹ, những bằng cấp của các nước này sẽ được bàn kỹ hơn những bằng cấp ở các nước khác. Qua bài viết này, tôi hy vọng bạn đọc sẽ bổ sung thêm hệ thống bằng cấp ở các nước Âu châu cho hoàn chỉnh và đầy đủ hơn.

Ngược dòng lịch sử

Hệ thống bằng cấp đại học ngày nay được bắt nguồn và mô phỏng từ hệ thống văn bằng của hai trường đại học cổ kính ở Âu châu vào thế kỷ 13: Trường Đại học Paris ở Pháp (thành lập vào năm 1170) và Trường Đại học Bologna ở Ý (thành lập vào khoảng 1158). Theo bộ luật La Mã (Roman Law), vào thời Trung cổ, mỗi ngành nghề có quyền thành lập một hiệp hội gọi là Collegium, và hiệp hội này bầu ra những người có danh hiệu là Magistrates (mà tôi tạm dịch là "Thầy"). Vào thời kỳ này, người được nhận vào phụ giảng được gọi là Bachalari. Vào cuối thế kỷ 13, Trường Đại học Paris thay đổi học vị này thành Baccalauréat. Lúc bấy giờ, văn bằng Baccalauréate hay Bachelor là học vị duy nhất được cấp cho những thí sinh đã (i)thi đỗ khóa thi do các các "Thầy" đặt ra; và (ii) đã học xong một chương trình giáo khoa 4 năm về ngữ pháp (grammar), tu từ học (rhetoric) và logic. Sau khi xong văn bằng Bachelor, thí sinh có thể theo học tiếp chương trình Master hay Doctor. Và sau khi đã xong chương trình học Master hay Doctor (khoảng 8 năm học), một hội đồng giám khảo sẽ duyệt xét thí sinh để kết nạp vào tổ chức được gọi là Universitas of Doctors.(1) Sự kếp nạp này cũng là một "chứng chỉ" cho người nhận được hành nghề dạy đại học.

Lúc bấy giờ, những danh xưng như Master, Doctor và Professor có cùng nghĩa và tương đương về giai cấp: họ hành nghề dạy học. Vào thế kỷ 13, những người dạy học tại Trường Đại học Bologna, lúc đó là trung tâm huấn luyện về luật pháp bên Âu châu, được gọi là Doctor. Trong khi đó ở Trường Đại học Paris, là trung tâm về văn học nghệ thuật, những người dạy học được gọi là Master.

Sự bình đẳng giữa Master và Doctor bị chấm dứt ở Anh và Mỹ, nơi mà văn bằng Doctor sau này được đánh giá cao hơn văn bằng Master. Ở Anh, hai trường Đại học Oxford (thành lập vào khoảng 1249) và Cambridge (thành lập vào khoảng 1209) được mô phỏng theo hệ thống tổ chức của Trường Đại học Paris; do đó, các nhà khoa bảng các môn văn hóa nghệ thuật thường được gọi là "Master", trong khi các đồng nghiệp của họ trong các môn học như triết lý, thần học, y học, và luật được gọi là "Doctor". Ngày nay, các tên bằng cấp như "Master of Arts" và "Doctor of Philosophy" có nguồn gốc từ sự phân chia này.

Ở Mỹ, Trường Đại học Harvard được thành lập vào năm 1636, với cơ cấu tổ chức được mô phỏng hoàn toàn theo hệ thống đại học ở Anh Quốc. Lúc đó, văn bằng Baccalaureate là văn bằng duy nhất được cấp cho sinh viên tốt nghiệp. Sau đó vài năm, văn bằng Bachelor of Arts (B.A.) được cấp cho sinh viên sau khi đã hoàn tất 4 năm theo học và qua một kỳ thi tốt nghiệp. Năm 1831, trường Harvard cho mở thêm chương trình học dẫn tới văn bằng Bachelor of Science (B.S.). Một năm sau đó (1852), trường đại học Yale cho ra đời chương trình học 3 năm dẫn đến văn bằng Bachelor of Philosophy (B.Phil.).

Đầu thế kỷ 19, bốn sinh viên của Mỹ là Edward Everett, George Ticknor, George Bancroft và Joseph Green Cogswell được cử sang du học tại Trường Đại học Gottingen (Đức), và sau khi trở về Mỹ họ trở thành giáo sư ở Trường Đại học Harvard. Bốn người này đã có nhiều ảnh hưởng trong việc hình thành một hệ thống giáo dục sau đại học tại Mỹ. Ôạng Everett sau này được bổ nhiệm làm hiệu trưởng Trường Đại học Harvard. Năm 1853, Trường Đại học Michigan, với cơ cấu tổ chức theo mô hình của Đức, đã quyết định đưa vào chương trình Master of Arts (M.A.). Sau đó 7 năm, Trường Đại học Yale (thành lập năm 1701) bắt đầu cấp văn bằng Doctor of Philosophy (Ph.D.). Nhưng hệ thống sau đại học thực sự mang tính "Mỹ" được bắt đầu khi hai Trường Đại học John Hopkins được thành lập vào năm 1876, và Chicago vào năm 1890, với chủ trương chỉ dạy chương trình sau đại học.

Hệ thống giáo dục cao đẳng và đại học hiện đại

Có thể nói phần lớn hệ thống giáo dục cao đẳng và đại học trên thế giới ngày nay được hình thành theo mô hình tổ chức của bốn nước (theo thứ tự): Pháp, Đức, Anh, và Mỹ. Các nước này có ảnh hưởng lớn đến nền giáo dục hiện đại ở các nước khác trên thế giới, kể cả Việt Nam, hoặc qua các chính phủ thuộc địa, chinh phục bằng quân sự và kinh tế, hoặc qua truyền giáo.

Nói một cách khái quát, sau 5 năm ở bậc tiểu học và 7 năm ở bậc trung học, học sinh có khả năng hay thích theo đuổi tiếp sự nghiệp học hành có thể ghi danh hay thi vào các trường cao đẳng hay đại học để học thêm. Dù có sự khác biệt về quy mô, tổ chức, quy định, và tiêu chuẩn giữa các quốc gia, nhưng nói chung hệ thống giáo dục cao đẳng và đại học có thể chia làm ba hình thức chính mà tôi tạm đặt tên là: cao đẳng, đại học, và sau đại học.

Ở bậc "cao đẳng" (có khi được dịch là đại học cộng đồng) gồm các trường và cơ sở có chương trình huấn luyện thực tiễn, nhắm vào mục đích đào tạo thợ hay cán sự có tay nghề cao, hay chuyên viên kỹ thuật lành nghề. Các chương trình này thường kéo dài trong vòng 2 tới 3 năm. Chương trình dạy học ở các trường này đã bị nhiều nhà giáo dục chỉ trích gay gắt là quá thực tế và thiếu tiêu chuẩn khoa bảng. Tuy vậy, các trường này cũng được sự ủng hộ của nhiều người vì nó đem lại cơ hội cho những học sinh không đủ khả năng theo đuổi các chương trình ở bậc đại học. Hệ thống giáo dục cao đẳng của Mỹ đã được một số nước như Úc, Gia Nã Đại, Nhật và Phi Luật Tân mô phỏng theo. Ở Mỹ, các trường đảm nhận các chương trình huấn luyện hệ cao đẳng thường được gọi là "Community College" (hay còn được gọi là "Junior College")(2), và ở Úc, các trường này thường được gọi là "Technical College".

Cao hơn hệ cao đẳng là hệ thống giáo dục đại học (Undergraduate university education) nhằm mục tiêu đào tạo các chuyên viên có trình độ lý thuyết căn bản tương đối cao trong mọi lĩnh vực, như kỹ sư, luật sư, bác sĩ, kinh tế gia, nghệ sĩ, v.v... Tùy theo môn học, để theo học các chương trình này, học sinh thường phải mất từ 3 đến 6 năm.

Sau cùng là chương trình giáo dục sau đại học nhắm vào mục tiêu đào tạo những nhà khoa học và kỹ thuật có trình độ chuyên môn vừa sâu vừa cao, và những giáo sư, những nhà nghiên cứu tương lai cho các trường đại học hay cơ sở nghiên cứu. Trong các chương trình sau đại học này, học sinh phải vừa học tập, vừa nghiên cứu từ 2 năm đến 10 năm, tùy theo ngành nghề chuyên môn.

Phần đông các cơ sở huấn luyện bậc đại học và sau đại học thường mang tên "University". Tuy nhiên, một số trường danh tiếng, do truyền thống và lịch sử khi thành lập, vẫn duy trì những tên gọi cũ như College (chẳng hạn như Darmouth College, Mỹ), Institute (như Massachusetts Institute of Technology, Mỹ), hay thậm chí School (như London School of Economics, Anh).

Vấn đề tên gọi trở nên khá rắc rối khi chữ "College" được dùng để gọi một phân khoa trong đại học và thậm chí một trường trung học. Thật vậy, trong một số (không nhỏ) các trường đại học ở Mỹ, Anh và Úc, một số phân khoa được gọi là "College" (thay vì "Faculty"). Các trường đại học lớn và lâu đời như Oxford và Cambridge (Anh) có nhiều trường "Colleges" như là những phân khoa chuyên môn trong hệ thống tổ chức nội bộ. Ở Anh, một số trường tuy đào tạo chương trình đại học, nhưng không có quyền cấp bằng, được gọi là "University College"(3).

Ở Anh và Úc, một số trường trung học tư thục (như Eton và Winchester) cũng có tên là "College"! Điều này đã gây ra một hiểu lầm sự khác biệt giữa College là một trường trung học và College là một trường đại học trên mặt báo gần đây ở trong nước(4).
Càng phức tạp hơn, khi chữ "College" còn dùng để chỉ một số cơ sở huấn luyện sau đại học (phần lớn là y khoa), tuy không chính thức cấp văn bằng, nhưng là những trung tâm đào tạo và chứng nhận trình độ kỹ năng nghề nghiệp, như Royal College of Surgeons, Royal College of Radiologists, Royal College of General Practitioners, v.v... Những "trường" này thực ra chỉ là những đoàn thể chuyên môn (hoàn toàn độc lập với các trường đại học), nhưng thí sinh muốn trở thành thành viên của các trường này đều phải trải qua một kỳ thi tuyển rất khó khăn và có tính cạnh tranh cao.

Hệ thống bằng cấp bậc cao đẳng và đại học

Ở mỗi bậc cao đẳng, đại học và sau đại học, có nhiều văn bằng khác nhau được cấp cho các học sinh tốt nghiệp hay đã đạt được một số tiêu chuẩn được đề ra trong một số ngành nghề. Ở hệ thống cao đẳng ("Community College"), sau hai năm học và đủ điểm tốt nghiệp, học sinh được cấp văn bằng "Associate" (5), như Associate in Arts, Associate in Applied Science, Associate in Business Adminstration, v. v...

Ở hệ thống đại học, văn bằng "Bachelor" (tức "Cử nhân") thường được cấp cho học sinh sau khi đã hoàn tất chương trình học. Hai bằng Bachelor of Arts (B.A.) và Bachelor of Science (B.S. ở Mỹ hay B.Sc. ở Anh) vẫn là hai bằng cấp thông dụng nhất(6). Ngoài hai văn bằng chung này ra, còn có nhiều văn bằng với những tên rất cụ thể như Bachelor of Engineering (Cử nhân Kỹ thuật), Bachelor of Architecture (Cử nhân Kiến trúc), Bachelor of Medicine (Cử nhân Y khoa), Bachelor of Nursing (Cử nhân Điều dưỡng), Bachelor of Economics (Cử nhân Kinh tế), Bachelor of Jurisprudence (Cử nhân Luật học), v.v... Ngày nay, với đà tiến bộ về khoa học và kỹ thuật, đã có hơn 600 loại bằng cử nhân trong các môn học khác nhau được cấp bởi các trường đại học ở Mỹ!

Hệ thống bằng cấp bậc sau đại học

Ở hệ thống cao đẳng và đại học, hệ thống văn bằng khá đơn giản, nhưng ở bậc hậu đại học thì hệ thống văn bằng rất phức tạp và có sự khác nhau giữa các quốc gia, không những về tên gọi, danh xưng, mà còn ở tiêu chuẩn và phương cách đào tạo.

Graduate Diploma: Đây là một loại văn bằng chỉ phổ biến ở Anh và một số nước còn chịu ảnh hưởng hệ thống giáo dục của Anh. Như tên gọi của văn bằng ám chỉ (Diploma có gốc Hy Lạp, "Diplous" có nghĩa là "gấp đôi"), Graduate Diploma(7) là một văn bằng học thêm. Thực vậy, Graduate Diploma thường dành cho (i) những người muốn theo học các môn học mà không cùng môn học ở bậc cử nhân mà họ đã có (chẳng hạn như sinh viên đã có bằng cử nhân về toán, nhưng muốn theo học hậu đại học nghành quản lý); và (ii) những người không đủ khả năng hay điều kiện học bậc Master. Thời gian học Graduate Diploma thường từ 1 tới 2 năm. Sinh viên không cần làm luận án tốt nghiệp. Ngày nay, với sự cạnh tranh giữa các trường đại học càng ngày càng gay gắt, số lượng sinh viên theo học Graduate Diploma ít đi dần, vì phần đông họ tìm cách học chương trình Master. Thật ra, khoảng phân nửa các môn học của chương trình Graduate Diploma là nằm trong chương trình học Master.

Master: Chữ "Master" có gốc từ tiếng Anh cổ, "maegester"; và chữ này tự nó được vay mượn từ tiếng Pháp cổ, "maistre" có nghĩa là "thầy". Cũng như ở bậc cử nhân, hai văn bằng Master of Science (M.Sc. hay M.S.) và Master of Arts (M.A.) là hai văn bằng thông dụng nhất ở bậc hậu đại học. Tuy nhiên cũng có những văn bằng chuyên môn cho các ngành chuyên môn khác như kinh tế (Master of Economics), luật (Master of Law), kỹ thuật (Master of Engineering), v. v... Riêng tại Mỹ, có khoảng 500 văn bằng Master khác nhau! Theo thống kê ở Mỹ, vào đầu thế kỷ 20, các trường đại học Mỹ đã cấp 1015 văn bằng master; cho đến năm 1960, con số này tăng lên khoảng 141 ngàn, và đến năm 1998, khoảng 420 ngàn.

Chương trình học Master, cũng giống như chương trình Graduate Diploma, là nhằm vào mục tiêu đào tạo những chuyên viên kỹ thuật cho các cơ quan chính phủ và công ty. Sau khi tốt nghiệp, những người này phải có một khả năng chuyên môn vừa sâu, vừa vững vàng, có thể đáp ứng cho nhu cầu thực tế của một cơ quan hay công ty. Chương trình Master thường dành cho những sinh viên đã có bằng cử nhân cùng nghành. Tuy nhiên, tùy theo trường hợp cá nhân và kinh nghiệm, các sinh viên cũng có thể theo học các nghành chuyên môn khác với văn bằng căn bản cử nhân mà họ đã có. Ngày nay, sinh viên trong các nghành khoa học thuần túy cũng có thể được nhận vào học bên các nghành kinh tế hay xã hội học. Chương trình master thường kéo dài từ 1 tới 2 năm. Nhưng cũng có trường dạy M.B.A. Ở (Master of Business Administration) trong vòng 1 năm, với một chương trình học rất nặng và đòi hỏi sinh viên phải học ngày học đêm.

Doctorate: Chương trình học Doctorate (9) là nhằm mục đích đào tạo những khoa học gia chuyên nghiệp (professional scientists), những chuyên viên nghiên cứu cấp cao cho các công ty kỹ nghệ và các cơ quan nghiên cứu thuộc chính phủ. Những người này đóng vai trò then chốt cho nền khoa học của một nước và là nguồn cung cấp nhân lực giảng dạy cho các trường đại học. Thời gian học thông thường từ 3 tới 6 năm. Trong thời gian nghiên cứu, sinh viên phải công bố ít nhất là 3 bài báo khoa học trên các tạp chí có "peer-review" (tức được duyệt bởi các nhà khoa học làm cùng ngành) để có thể bảo vệ luận án. Luận án thường được hai khoa học gia có uy tín trong nước (thông thường từ các trường đại học khác) và một hoặc hai khoa học gia uy tín ngoài nước duyệt xét và phê chuẩn. Thời gian duyệt xét luận án có thể từ 6 tháng tới 1 năm.
Nói chung ở các nước Tây phương như Mỹ, Canada, Úc, và Anh quốc, văn bằng tiến sĩ là văn bằng cao nhất trong hệ thống giáo dục hậu đại học. Tuy nhiên, có vài khác biệt về tên gọi các văn bằng doctorate này giữa các nước, và nếu không để ý, sẽ gây ra những hiểu lầm đáng tiếc.

Ở các nước như Anh và Úc, có ba dạng tiến sĩ riêng biệt: Ph.D. (Doctor of Philosophy) cho tất cả các nghành (kể cả y khoa), M.D. (Doctor of Medicine) riêng cho y khoa, và D.Sc. (Doctor of Science) cho tất cả các nghành khoa học. Ở các nước này, học vị D.Sc., trên lý thuyết, được xem cao hơn học vị Ph.D. và M.D., vì một trong những điều kiện được theo học D.Sc. là thí sinh phải có học vị Ph.D. hay M.D. ít nhất là 10 năm và đã có đóng góp lớn trong nghiên cứu khoa học trên trường quốc tế.

Không nên nhầm lẫn giữa văn bằng D.Sc. của Úc/Anh và của Mỹ. Ở Mỹ, văn bằng cao nhất là Ph.D. hay tương đương. Những văn bằng tương đương Ph.D. ở Mỹ thường gặp là D.Sc. (còn được viết tắt là "Sc.D."), Ed.D. (Doctor of Education, Tiến sĩ Giáo dục), Dr. P.H. (Doctor of Public Health, Tiến sĩ Y tế Công cộng), Dr. Eng. (Doctor of Engineering, Tiến sĩ Kỹ thuật). Một số trường, chẳng hạn như Trường Đại học Harvard, học vị doctorate của nghành Y tế Công cộng (Public Health) là D.Sc., trong khi đó ở các trường khác lại gọi là Dr. P.H. hay Ph.D. Tương tự, ở Trường Đại học Boston, những học sinh tốt nghiệp doctorate ngành sư phạm được gọi là Ed.D., nhưng phần lớn ở các trường khác thì lại được gọi là Ph.D. Văn bằng Ph.D. cũng được cấp cho các học sinh trong các ngành kỹ thuật, nhưng có trường ở Mỹ lại gọi là Dr. Eng. Vì thế văn bằng D.Sc. của Mỹ không tương đương với bằng D. Sc. của Úc hay Anh Quốc.

Tiến sĩ và Bác sĩ: Tiếng Việt ta phân biệt Tiến sĩ và Bác sĩ; nhưng trong tiếng Anh, những người có học vị Ph.D. , D.Sc. và M.D. đều được gọi là "Doctor". Tuy nhiên, có sự khác biệt giữa văn bằng M.D. của Úc/Anh Quốc và M.D. của Mỹ. Không giống như ở Mỹ, nơi mà y khoa được dạy như một chương trình hậu đại học ("Graduate study", tức sau khi sinh viên đã xong chương trình Cử nhân); ở Úc và Anh, các sinh viên học y khoa được tuyển thẳng từ các trường trung học, và do đó, chương trình y khoa được xem là bậc đại học ("Undergraduate"), mặc dù thời gian huấn luyện tương đương.

Trong khi các sinh viên y khoa ở Mỹ ra trường với văn bằng M.D. (Doctor of Medicine, Tiến sĩ Y khoa), các đồng nghiệp của họ ở Úc ra trường với hai bằng cử nhân M.B. và B.S. (Bachelor of Medicine và Bachelor of Surgery, Cử nhân Y khoa và Cử nhân Giải phẫu). Cần được nói thêm là mặc dù văn bằng là cử nhân, nhưng danh xưng của họ là "Bác sĩ" (Doctor).

Ở Úc, các bác sĩ đã có văn bằng M.B. B.S. có thể ghi danh theo học tiếp chương trình Ph.D. hay M.D. Chương trình Ph. D. có mục đích đào tạo các bác sĩ thành những nhà khoa học chuyên nghiệp, có khả năng nghiên cứu độc lập. Chương trình M.D. có mục đích đào tạo các bác sĩ thành những chuyên gia lâm sàng (clinical science) hơn là khoa học cơ bản (basic science). Thông thường, sinh viên phải làm một hay hai cuộc nghiên cứu lâm sàng (clinical studies) và viết luận án dựa trên các nghiên cứu này. Chương trình học M.D. thông thường là 2 cho tới 3 năm (ngắn hạn hơn Ph. D.). Do đó, văn bằng M. D. của Úc và Anh không có cùng nghĩa với văn bằng M.D. của Mỹ.

Post-doctorate (Hậu tiến sĩ): Khi học sinh hoàn tất chương trình doctorate, học sinh còn phải trải qua một giai đoạn "thực tập" thông thường kéo dài khoảng 1 tới 5 năm. Người nghiên cứu trong giai đoạn này thường được gọi là "Post-doctoral fellow" (tạm dịch là "nghiên cứu sinh hậu tiến sĩ"). Thực ra, trong giai đoạn này, thí sinh không được cấp văn bằng gì cả, vì đây là giai đoạn mà nghiên cứu sinh phải làm việc dưới sự hướng dẫn của một giáo sư kinh nghiệm, và qua đó dần dần tự mình phát triển một chương trình nghiên cứu của riêng mình. Đây cũng là thời gian mà nghiên cứu sinh có cơ hội để "trưởng thành" một nhà nghiên cứu độc lập. Vì thế, "Postdoctoral fellow" không phải là một văn bằng, và không nên hiểu như là một "tiến sĩ cao cấp" (10).

Học vị ở Pháp, Đức và Nga

Ở Pháp, hệ thống giáo dục đại học trực thuộc sự quản lý của chính phủ. Do đó, việc phân chia bằng cấp và học vị được định đoạt bởi chính phủ. Kể từ năm 1968 (thời gian của cuộc "cách mạng giáo dục"), bằng cấp ở Pháp đã trở thành khá phức tạp và có khi khó mà so sánh được. Thông thường, sau 7 năm học trung học và thi đỗ tú tài, học sinh được cấp bằng Baccalauréat. Từ đây, học sinh có hai lựa chọn: một là thi vào các trường chuyên môn gọi là Grandes Écoles; và hai là thi vào các trường đại học "chính qui".

Nhưng trước khi thi vào các trường Grandes Écoles, học sinh cần phải học thêm khoảng một năm về toán bổ xung và một năm về toán chuyên môn. Sau đó, các học sinh sẽ phải qua một kỳ thi tuyển toàn quốc để được nhận vào các trường như École Normale Supérieure (ENS hay Sư phạm), École Nationale d'Administration (ENA hay Quốc gia Hành chính), École Polytechnique, v.v...

Tuy nhiên, nếu học sinh chọn thi vào các trường chính qui thì không phải học thêm hai năm ở trung học. Theo chương trình của các đại học chính qui, khi đã học xong chương trình đầu tiên đại học (hai năm), sinh viên có thể ra trường với bằng Diplôme Universitaire d'Études des Literature (DUEL) hay d'Études Scientifiques (DUES). Nếu muốn theo học ngành sư phạm để ra dạy trung học, sinh viên cần phải học thêm một năm (hoặc lâu hơn) nữa với mục tiêu lấy văn bằng Lisence (tương đương cử nhân) và các chứng chỉ sư phạm. Tuy nhiên, sau khi có DUEL hay DUES, sinh viên có thể theo học [cao hơn] khoảng 2 tới 3 năm để lấy văn bằng Maitrise (tương đương Master trong hệ thống giáo dục Anh, Mỹ, Úc, v.v.).

Sau khi sinh viên đã có bằng Maitrise, sinh viên muốn học doctorate cần phải trước hết học qua một đến hai năm học để lấy văn bằng Diplôme d'Études Approdondies (DEA) hay Diplôme d'Études Supérieures (DES). Sau khi đã có DEA hay DES, sinh viên có thể xin vào nghiên cứu để viết luận án tiến sĩ. Năm 1964, ba văn bằng được đưa vào hệ thống bằng cấp sau đại học ở Pháp: Doctorat du Troisième Cycle, Doctorat Université và Doctorat d'Etat (11). Thời gian học cho bằng Doctorat du Troisième thường từ hai năm rưỡi tới bốn năm. Đây cũng là một văn bằng cần thiết để dạy đại học. Học vị Doctorat Université thường được cấp cho người nước ngoài, sau khi đã qua một đến hai năm học ở bậc hậu đại học. Người có bằng Doctorat Université không có quyền dạy đại học ở Pháp. Văn bằng Doctorat d'Etat là một học vị cao nhất ở Pháp, và được cấp cho những nhà khoa học xuất sắc, đã qua ít nhất là 2 năm (thường là từ 4 tới 12 năm) nghiên cứu sau văn bằng Doctorat du Troisième Cycle. Bằng cấp này là một điều kiện được bổ nhiệm vào chức vụ

"Professeur" (Giáo sư) đại học.

Sinh viên có văn bằng Diplôme Universitaire, License, hay Maitrise có thể dự thi lấy chứng chỉ Agrégation (thường dịch là Thạc sĩ vào thời trước năm 1975 ở miền Nam Việt Nam). Cần nói thêm rằng Agrégation không phải là một học vị hay bằng cấp, mà chỉ là một "giấy hành nghề" giảng dạy ở vài trường hợp như giáo sư y khoa hay dược khoa (ở Pháp sinh viên học y khoa vô thẳng sau khi thi tú tài), và giáo sư trung học (sau khi ra trường ENS, sinh viên sẽ phải thi để được trao danh hiệu Agrégé vào tên mình).

Hệ thống học vị ở Đức rất khác biệt so với các nước như Anh, Úc và Mỹ. Vào độ 10 tuổi, sau khi đã qua 4 năm tiểu học, học sinh bước vào ngưỡng cửa của một loại trường Gymnasium để học các môn như toán, ngôn ngữ và khoa học tự nhiên. Sau 9 năm học ở cấp bậc Gymnasium, khoảng 25% trong số học sinh tốt nghiệp sẽ vào trường Mittelschule và học thêm khoảng 6 năm. Theo thống kê, mỗi năm có khoảng 50% tới 60% học sinh tốt nghiệp Abitur (tương đương với trung học phổ thông) và có quyền thi vào học đại học. Văn bằng đầu tiên ở bậc đại học là một học vị Doktor, sau khi đã qua ít nhất là 10 tới 13 năm sau khi tốt nghiệp Abitur. Tuy nhiên, phần đông sinh viên không theo đuổi học lâu dài như thế, nhưng họ lại chọn "ra trường" bằng một văn bằng Diplom sau khi đã qua 4 năm đại học. Khoảng mười năm trước, Đức bắt đầu cấp bằng Magister Artium (hay Master of Arts) cho các sinh viên. Bằng cấp này thường cấp cho sinh viên ngoại quốc, những người không muốn qua kỳ thi Staatsexamen để trở thành giáo viên học. Trên lý thuyết, ba văn bằng Diplom, Staatsexamen và Magister là ngang hàng với nhau, nhưng trên thực tế thì khác nhau xa và còn tùy thuộc theo nghành học. Chẳng hạn như trong nghành hóa học, Staatsexamen được xem là thấp hơn Magister. Nhưng trong ngành sử học, người có bằng Staatsexamen được quí trọng và xem cao cấp hơn người có bằng Magister.

Như đề cập trên, trên lý thuyết văn bằng Doktor là học vị đầu tiên của đại học Đức. Sau khi đã tốt nghiệp Doktor, thí sinh phải làm phụ tá nghiên cứu hay giảng dạy một thời gian để thu thập kinh nghiệm tiếp tục theo học văn bằng Habilitation, một học vị cao nhất ở Đức.
Ở Nga và Liên Xô cũ, sau khi xong trung học, học sinh phải trải qua một kỳ thi tuyển vào đại học. Sau 4 hoặc 5 năm theo học và đủ điểm, thí sinh được cấp bằng "diploma". Sau khi đã có bằng diploma, sinh viên phải cạnh tranh vào chương trình hậu đại học. Sau ba năm học và nghiên cứu, thí sinh có thể tốt nghiệp với bằng Kandidat Nauk (Candidate in Science)(12). Sau một thời gian dài nghiên cứu và có thành tích xuất sắc, nhà khoa học có thể trình luận án để được xét cấp văn bằng Doktor Nauk (Doctor of Science)(12). Cũng như ở Đức và Pháp, chỉ có những ngừơi có văn bằng Habilitation hay Doctor d'État mới được bổ nhiệm chức vụ giáo sư đại học, văn bằng Doktor Nauk này là một điều kiện cần thiết để được bổ nhiệm vào chức vụ giáo sư đại học ở Nga.

Một vài so sánh

So với các nước như Mỹ và Anh Quốc, hệ thống bằng cấp ở các nước Pháp, Đức và Nga (hay Liên Xô cũ) có nhiều khác biệt về thời gian đào tạo, đẳng cấp và tên gọi. Ở các nước Âu châu này, hệ thống giáo dục đại học có tính cạnh tranh cao; học sinh được nhận vào học đại học chỉ khi nào đã đỗ một kỳ thi tuyển, có khi rất khó. Ngược lại, ở các nước như Mỹ, Anh Quốc và Úc, học sinh có thể được nhận thẳng vào đại học dựa theo số điểm đạt được trong trung học và kỳ thi tú tài.

Tuy có khác nhau về tên gọi và chương trình huấn luyện, trên bình diện tổng quan, các nước Âu châu này cũng có ba học vị chính: cử nhân, cao học và tiến sĩ. Dựa theo thời gian đào tạo, có thể xem văn bằng Bachelor trong hệ thống Anh-Mỹ tương đương với License của Pháp, Diplom của Đức và Diploma của Nga. Tương tự, có thể xem học vị Master trong hệ thống Anh-Mỹ tương đương với Maitrise của Pháp, Magister của Đức, và một số văn bằng Candidat Nauk của Nga. Cũng dựa theo chương trình và thời gian đào tạo, có thể xem văn bằng Ph.D. của Mỹ và Anh tương đương với Doctorat du Troisième Cycle của Pháp, Doktor của Đức, và một số (không phải tất cả) văn bằng Candidat Nauk của Nga. Văn bằng D.Sc. của Anh và Úc có lẽ tương đương với Doctor d'État của Pháp, Habilitation của Đức và Doktor Nauk của Nga.

Hệ thống học hàm

Học vị là những văn bằng được cấp bởi các cơ sở giáo dục cho học sinh sau khi đã hoàn tất một chương trình học. Học hàm là những chức vụ khoa bảng hoặc do chính phủ hoặc do các trường đại học đề bạt hay trao tặng cho những người giảng dạy hay nghiên cứu khoa học. Thí dụ như Bachelor, Master, và Ph.D. (hay tương đương) là những học vị; và Professor, Lecturer, và Fellow là những học hàm. Ngày nay, hầu hết những người làm công tác giảng dạy đại học đều phải có học vị tối thiểu là Master, nhưng thường là Doctorate hay tương đương.

Trong các trường đại học Tây phương, người ta phân biệt ba cấp nhân viên giảng dạy mà tôi tạm gọi [theo chức năng và trình độ] là: tập sự, trung cấp, và cao cấp. Ở bậc tập sự gồm các chức vụ như Teaching Assistant, Tutor. Proctor, v.v... Những nhân viên này có trách nhiệm làm phụ giảng, chấm bài thi, giám thị trong phòng thí nghiệm, v.v...

Ở bậc trung cấp gồm những nhân viên khoa bảng mang học hàm như Lecturer (ở Anh và Úc), Maitre Assistant (Pháp) và Assistant Professor (Mỹ)(13). Những nhân viên này là những người đang ở bước đầu trong nấc thang sự nghiệp khoa bảng, có nhiệm vụ trực tiếp giảng dạy sinh viên và làm nghiên cứu hoặc độc lập, hoặc dưới sự chỉ đạo của các giáo sư thâm niên.

Trên trung cấp một bậc là những nhân viên khoa bảng mang học hàm Reader (ở Anh và Úc), Maitre de Conférence (Pháp) và Associate Professor (Úc và Mỹ)(14). Những người này là những nhà khoa bảng đang ở trong thời kỳ "quá độ" để chuẩn bị được đề bạt lên một chức vụ khoa bảng cao nhất trong hệ thống học hàm đại học. Trong đại đa số, họ cũng là những nhà nghiên cứu độc lập và có ít nhiều uy tín trong chuyên môn.

Sau cùng là các nhân viên khoa bảng cao cấp, tức những người mang học hàm Professor (ở Mỹ, Anh, và Úc), Professeur (Pháp) hay Senior Fellow (Anh và Úc)(15). Họ là những nhà khoa bảng kinh nghiệm lâu năm và quá trình nghiên cứu có uy tín trên trường quốc tế.

Tiêu chuẩn để được đề bạt vào các chức vụ này thường dựa vào ba cống hiến chính: nghiên cứu, giảng dạy, và phục vụ cộng đồng. Về nghiên cứu, mức độ cống hiến cho kiến thức nhân loại được "đo lường" bằng số lượng và chất lượng các bằng sáng chế (patents) hay các bài báo khoa học (papers) được công bố trong các tạp chí khoa học chuyên môn(16). Tùy theo trường đại học, một Assistant Professor phải có ít nhất là 5 bài báo khoa học; một Associate Professor thường phải có tối thiểu là 30 bài báo khoa học; và một Professor phải có tối thiểu là 50 (thường là 100) bài báo khoa học.

Học hàm "kết hợp"

Ngoài các học hàm được phong hay đề bạt một cách nghiêm túc dựa trên thành tích hoạt động khoa học và giảng dạy, trong một số ngành như y khoa, kinh tế, và kỹ thuật, một số học hàm được trao tặng dựa vào sự quan hệ của người được trao và trường đại học. Trong các bệnh viện, một số bác sĩ chuyên khoa cao cấp, tuy không làm nghiên cứu khoa học và chẳng có công bố công trình khoa học nào đáng kể, có thể được bổ nhiệm chức vụ Lecturer, Assistant Professor, Associate Professor hay thậm chí Professor trong các trường Y.

Tương tự, một số chuyên viên nghiên cứu khoa học trong các công ty thương mại, tuy không giảng dạy, nhưng cũng được trao tặng các chức vụ khoa bảng trên.

Những "nhà khoa bảng" này không được trường đại học trả lương, và không phải là nhân viên chính thức của trường. Nhưng khi họ công bố các bài báo khoa học thì trường có quyền kể những bài báo đó như tài sản tri thức của nhà trường! Tuy nhiên, bù lại, họ được phép dùng những danh xưng khoa bảng của trường trong các văn bản liên quan đến hoạt động khoa học. Những học hàm này thường có chữ "Conjoint" hay "Adjunct" phía trước danh xưng "Professor" hay "Associate Professor" để phân biệt với những học hàm "thật". Việc dùng những danh xưng này, trên lý thuyết, thường được các trường đại học kiểm tra rất gắt gao; nhưng trong thực tế, một số người được trao những học hàm này thường lờ và bỏ đi những chữ "Conjoint" hay "Adjunct" để được người ngoài hiểu như những nhà khoa bảng thật!

Học vị và học hàm danh dự

Hầu như tất cả các trường đại học ở các nước Tây phương đều có những kế hoạch để biểu dương tên tuổi và danh tiếng của trường mình đến với thế giới bên ngoài. Để đạt được mục tiêu này, các trường đại học thường dùng chính sách cấp học vị và học hàm danh dự cho những nhân vật quan trọng trong cộng đồng. Những học vị và học hàm danh dự được trao tặng thường là những văn bằng và chức vụ cao nhất trong đại học: "Tiến sĩ" (Honorary Doctor) hay "Giáo sư" (Honorary Professor). Người được trao tặng không nhất thiết phải là cựu sinh viên hay cựu nhân viên của trường, cũng không cần phải có quá trình học vấn nào, mà có thể là một nhà hoạt động chính trị, nhà hoạt động xã hội, một nghệ sĩ, nhà báo, công chức có tiếng tăm. Ở Úc, cựu Thủ tướng Paul J. Keating, người có trình độ học vấn cấp phổ thông trung học, sau khi rời chính trường, được Trường Đại học New South Wales trao tặng học hàm "Honorary Professor", để ghi nhận đóng góp của ông trong nỗ lực đem tên tuổi nước Úc vào thị trường Á châu.

Những học vị và học hàm danh dự, vì thế, có tính ngoại giao, "hữu nghị", hơn là những chứng chỉ khoa bảng. Do đó, trong thực tế, phần đông những người Tây phương được trao học vị và học hàm danh dự ít khi nào dùng nó như là một thành tích hoạt động khoa bảng hay trình độ học vấn; tuy nhiên, một số đồng hương người Việt lại hay thích ký tên mình kèm theo những danh xưng danh dự nơi công cộng.

Ngoài các học hàm "hữu nghị" này, nhiều trường đại học còn phong chức "Emeritus Professor" (cựu giáo sư) cho các giáo sư đã nghỉ hưu, nhưng vẫn còn gắn bó với trường đại học. Danh hiệu này thường được trao tặng cho các giáo sư có đóng góp lớn cho khoa học, cho trường và đã làm việc tại trường trong một thời gian dài.

Vài chức vụ trong các hội đoàn chuyên môn

Một số ngành nghề chuyên môn như y khoa và kỹ thuật thường được tổ chức khá chặt chẽ, mà trong đó trình độ chuyên môn và đẳng cấp thâm niên được phân chia tương đối rõ ràng. Theo cơ cấu tổ chức này, những người hành nghề phải là hội viên của một hiệp hội chuyên ngành. Hiệp hội này có chức năng đề ra những tiêu chuẩn và qui tắc hành nghề, kiểm tra trình độ chuyên môn của hội viên, và quản lý nhân sự trong tổ chức. Theo định kỳ, thường là hàng năm, các hiệp hội chuyên môn này tổ chức một kỳ thi tuyển để kết nạp hội viên. Chẳng hạn như ở Úc và Anh, các bác sĩ muốn hành nghề chuyên khoa, ngoài việc thực tập một thời gian (khoảng 5 năm), còn phải qua một kỳ thi tuyển vào một "college" chuyên môn như "Royal College of Surgeons" (dành cho các bác sĩ giải phẫu), "Royal College of Radiologists" (dành cho các bác sĩ chuyên khoa bức xạ học), v.v...

Sau khi thi đỗ, thí sinh sẽ được cấp chứng chỉ hành nghề. Những chứng chỉ này thường có chữ "Fellow" phía trước, như "Fellow of the Royal College geons" hay (FRCS). Giới kỹ sư ở Mỹ cũng có những hiệp hội tương tự như trong ngành y khoa, nhưng cách thức thu nạp hội viên và tên gọi của họ khác ngành y khoa.

Tuy nhiên, trong các ngành nghề khác, có rất nhiều hiệp hội chuyên môn hoạt động một cách bán thương mại, và hình thức tổ chức không chặt chẽ như trong ngành y khoa và kỹ thuật. Phần đông những hiệp hội này mở cửa đón nhận tất cả các hội viên, không phân biệt trình độ học vấn và khả năng chuyên môn, ngay cả sinh viên cũng có thể gia nhập, và không phải qua một kỳ thi tuyển nào. Hội viên phải đóng hội phí mỗi năm. Hội viên thường được gọi là "Member", thay vì "Fellow" như các hiệp hội nghiêm túc. Do đó, là hội viên của những hội này không có nghĩa là một bằng chứng về khả năng chuyên môn hay thành tích hoạt động khoa học.

Ngoài các hiệp hội chuyên môn, còn có những hội đoàn bách khoa, mà trong đó thành viên là tất cả các nhà khoa học hoạt động trong mọi lĩnh vực khác nhau. Những hiệp hội này thường có tên "Academy", chẳng hạn như "The National Academy of Sciences of the United States of America" (tức Viện Hàn lâm Khoa học Quốc gia Hoa Kỳ). Không giống như Liên Xô cũ (nơi mà Viện Hàn Lâm Khoa Học Moscow là một trung tâm nghiên cứu), ở các nước Tây phương như Mỹ, Anh và Úc, viện hàn lâm không phải là một viện nghiên cứu, cũng không phải là tập hợp các viện nghiên cứu, mà là một đoàn thể hay tổ chức tư nhân bất vụ lợi, có chức năng chính là: (i) cố vấn cho chính phủ các chính sách liên quan tới khoa học và kỹ thuật; và (ii) giáo dục và cổ động quần chúng về khoa học và vai trò của khoa học trong xã hội.

Đối với phần đông quần chúng, cụm từ "viện hàn lâm" đồng nghĩa với nơi tập trung của những bộ óc siêu việt, những con người thông thái nhất của một quốc gia. Nhưng trong thực tế ở các nước có nền khoa học tiến bộ cao như Mỹ thì điều này chỉ đúng một phần, vì như nói trên, Viện Hàn lâm Khoa học chỉ là một đoàn thể, là một cơ quan đại diện [có thể là cao nhất] cho các nhà khoa học. Hội viên của hàn lâm viện thường do đồng nghiệp tiến cử và bình bầu. Do đó, có nhiều nhà khoa học có thực tài, nhưng không được tiến cử, nên không bao giờ là thành viên của hàn lâm viện! Trong số khoảng 350 nhà khoa học và xã hội Mỹ đoạt giải Nobel, chỉ có 170 người là thành viên của Viện này. Viện Hàn lâm Khoa học Quốc gia Hoa Kỳ có khoảng 1900 thành viên (thường được dịch là "viện sĩ"); trong đó có khoảng 300 là người mang quốc tịch và ở nước ngoài [Mỹ]. Theo tiêu chuẩn chung, họ phải là những nhà khoa học ưu tú trong lĩnh vực chuyên môn, nhưng do tính cách bình bầu, nên nó cũng lộ ra vài vấn đề liên quan đến việc thiên vị và bè phái. Đã có nhiều người cho rằng Viện này là một câu lạc bộ kín ("close club"), nơi mà chỉ có các nhà khoa học quen biết với nhau qua giao thiệp xã giao, hơn là một cơ quan đại diện chân chính cho các nhà khoa học. Điểm qua danh sách của 1900 thành viên thuộc Viện này, người ta có thể tìm thấy tên của nhiều nhà khoa học thường hay xuất hiện trên các hệ thống truyền thông đại chúng hay có nhiều hoạt động xã hội và chính trị như Albert Einstein, James Watson, v.v. Thành ra, nhiều nhà khoa học lớn, những người tự coi họ là làm khoa học loại "thứ thiệt", những người không thích hư danh hay ồn ào trên các hệ thống truyền thông, thì không thích có mặt trong Viện này. Nhà vật lý học lừng danh Richard Feynman, cũng như nhiều nhà khoa học danh tiếng khác, không phải là thành viên của Viện Hàn lâm Khoa học Quốc gia Hoa Kỳ. Chưa có một khoa học Việt Nam hay gốc Việt nào có chân trong Viện Hàn lâm Quốc gia Khoa học Hoa Kỳ.

Uy tín của một viện hàn lâm không chỉ tùy thuộc vào sự tiến bộ về khoa học kỹ thuật của một nước, mà còn nhờ vào danh tiếng của các thành viên trong viện. Không ai sẽ ngạc nhiên khi biết rằng các viện hàn lâm khoa học của Mỹ, Anh, Pháp, Đức hay Liên Xô cũ, nơi tập trung các nhà khoa học hàng đầu trên thế giới, được nhiều người nể trọng hơn là các viện hàn lâm khoa học của các nước Phi châu hay Hồi giáo. Cũng cần phải nói thêm ở đây rằng không phải chỉ khoác cái tên "hàn lâm" (academy) vào một đoàn thể hay cơ quan là tự động thành một viện hàn lâm. Trong các "viện hàn lâm khoa học" ở Mỹ, chỉ có Viện Hàn lâm Khoa học Quốc gia Hoa Kỳ là một cơ quan uy tín nhất; các viện hàn lâm khác, mặc dù cũng dùng chữ "academy", như "The New York Academy of Science" (NYAS hay Viện Hàn Lâm Khoa Học New York) là một đoàn thể thương mại, không có uy tín gì lớn trong cộng đồng khoa học. Bất cứ một sinh viên nào trên thế giới đều có thể trở thành "viện sĩ" nếu họ nộp tiền hội phí hàng năm cho Viện này. Do đó, thành viên của NYAS không phải là một danh dự, không phải là chứng nhận về sự thành đạt trong hoạt động khoa học. Tuy nhiên, tôi thấy đã có nhiều nhà khoa học Việt Nam đã bị lầm và bị "làm tiền" bởi Viện này (17).

Vài nhận xét chung

Người không quen với hệ thống khoa bảng và bằng cấp có thể sẽ thấy chóng mặt với những tên gọi những học vị và học hàm trên đây, và sẽ đặt câu hỏi là người được cấp những văn bằng này phải đạt những tiêu chuẩn gì. Thực ra, đứng trên bình diện quốc gia, không có tiêu chuẩn nhất quán giữa các trường đại học trong việc cấp những văn bằng này. Mỗi trường đại học có những tiêu chuẩn riêng. Có khi mỗi thí sinh cũng được xét theo từng trường hợp riêng biệt. Có sinh viên ra trường tiến sĩ chỉ trong vòng sau 3 hay thậm chí 2 năm theo học, nhưng cũng có sinh viên phải miệt mài cả tám năm để lấy mảnh bằng Tiến sĩ. Cũng có những trường hợp hiếm hoi khi sinh viên theo học chương trình Tiến sĩ, nhưng khi ra trường chỉ được thẩm định và cấp bằng Cao học. Lại có người nghiên cứu cả mười năm, nhưng chẳng viết được luận án gì!

Đôi khi, tự những học vị Ph.D., M.S., B.S. nó bao hàm một nội dung rộng đến mức... chẳng có nghĩa gì cụ thể. Trên lý thuyết, văn bằng Ph.D. là học vị cao nhất ở Mỹ và Úc; tuy nhiên, cũng có nhiều "loại" Ph.D. với nhiều chất lượng khác nhau. Có nhiều người có văn bằng Ph.D., nhưng độ hiểu sâu và kiến thức chưa chắc đã hơn một người có học vị Cử nhân, thậm chí Tú tài, thời Pháp thuộc ở Việt Nam.

Ngoài ra, ở Mỹ còn có tệ nạn "nhà máy văn bằng" (diploma mills) hoạt động hoặc dưới hình thức dạy học hàm thụ, hoặc qua hệ thống dạy học từ xa với sự trợ giúp của máy vi tính và mạng internet. Phần lớn những trường này thực chất chỉ là những văn phòng nhỏ tại nhà, thậm chí chỉ là nhà để xe hay nhà bếp, nhưng họ lại tự gắn cho họ những cái tên "lập lờ đánh lận con đen" (mà nếu công chúng không để ý kỹ có thể lẫn lộn với những trường danh tiếng của Mỹ) như "Harbard University", "Universitas Harvardiana", "Atlanta Southern University", v.v... Mục đích duy nhất của các sơ sở thương mại này là bán bằng cấp với giá từ 3000 tới 5000 đô-la Mỹ. Có "trường" còn bán tới 500 bằng tiến sĩ hàng tháng! Do đó, một học vị, nếu không "đi kèm" với một trường đại học nghiêm chỉnh được công nhận, cũng có thể không có giá trị khoa bảng gì.

Tiêu chuẩn và phẩm chất học hàm thường mang tính địa phương; tức là cũng có sự khác nhau giữa các thời điểm, giữa các nước, và thậm chí giữa các trường đại học trong cùng một nước. Một vị Professor ở Mỹ có thể chỉ được xem tương đương với một Associate Professor ở Pháp hay Anh, và ngược lại. Tương tự, một Assistant Professor ở một trường danh tiếng tại Mỹ có thể trở thành Professor ở Nhật, Hồng Kông hay Singapore.

Thời điểm cũng là một yếu tố quan trọng. Vài mươi năm trước đây, ở các nước như Anh, Úc, Pháp, Đức và Nga, mỗi Ban chuyên môn (Department) trong một trường đại học chỉ có một người duy nhất mang học hàm "Professor", những người còn lại chỉ là "Associate Professor" hay "Lecturer". Những vị người mang hàm "Professor" thời đó được phép dùng danh hiệu này suốt đời, dù họ chuyển từ trường đại học này sang trường đại học khác. Học hàm "Professor", do đó, cực kỳ cao quí ở các nước này trong thời gian trước đây. Nhưng ở một góc độ khác, có thể nói vấn đề một-Professor này cũng là nguyên nhân làm cho nhiều nhà khoa bảng ở các nước trên chuyển sang Mỹ nghiên cứu và giảng dạy, vì ở Mỹ, một Ban có thể có nhiều (thậm chí hàng trăm) người mang hàm "Professor". Các nhà khoa bảng trẻ ở Mỹ không phải chờ đến lúc lục tuần để được phong hàm "Professor"! Tuy nhiên, để chống lại dòng "chảy chất sám" này, ngày nay, ở các nước như Anh, Đức và Úc, học hàm "Professor" đã được "Mỹ hoá", và mỗi Ban có thể có nhiều người mang học hàm "Professor". Các nhà khoa bảng trẻ do đó có cơ hội mang học hàm này hơn trước.

Vì học hàm "Professor" bị Mỹ hóa, ngày nay, có quá nhiều Professor và phân biệt ai giỏi, ai dở là một việc làm cực kỳ khó khăn vì trong nhiều trường hợp, học hàm này không còn phản ảnh trung thực khả năng chuyên môn của nhà khoa bảng nữa. Thực vậy, nhiều giáo sư ở các trường đại học lớn ở Mỹ và Úc cũng có thể "dốt" (huống hồ chi là học trò Ph.D!) Ngược lại, cũng có vô số người không có học hàm "Giáo sư" nhưng lại cực kỳ giỏi. Cũng có nhiều nhà khoa bảng có hàng trăm bài báo khoa học và trên phương diện chuyên môn, còn danh tiếng hơn nhiều Professors khác, nhưng họ chỉ giữ chức Assistant Professor, thậm chí không có học hàm nào! Thành ra, trong hoạt động khoa học, bằng cấp và danh xưng là những điều không được đặt nặng. Thực ra, đối với phần lớn các nhà khoa học chân chính, những học hàm và danh xưng hoàn toàn vô nghĩa, ngoài việc gây ấn tượng và "lấy le" với những người dân thường hay những nhà chính trị thiếu hiểu biết về hoạt động khoa học.

Xuất phát từ truyền thống lâu đời, người Việt Nam ta trọng giới khoa bảng và những người có bằng cấp cao. Nhưng sự trọng bằng cấp của số đông dân chúng đã sinh ra tệ nạn khệnh khạng bằng cấp trong giới có học hay có chút chữ nghĩa. Ngày nay, chỉ cần mở một tờ báo Việt ngữ hải ngoại ở California hay Sydney, người ta sẽ phải chóng mặt về những bằng cấp và danh xưng của các vị cử nhân, luật sư, kỹ sư, tiến sĩ, giáo sư, này nọ. Cố nhiên, một số bằng cấp và học hàm này là thật, do chính đương sự đạt được trong quá trình học tập và nghiên cứu, nhưng cũng có một số là những bằng cấp được chuyển ngữ một cách bịp bợm, nhằm lòe đồng hương, hay thậm chí một số học vị và học hàm "dỏm". Thực vậy, có lẽ do nhu cầu kinh tế hay môt lý do nào đó, người có bằng cấp, do vô tình hay cố ý, cũng đã đôi khi lạm dụng bằng cấp của mình và danh xưng. Nhiều trường hợp, người ta quảng cáo là "Giáo sư" một đại học nào đó, nhưng lại cố tình lờ đi thực chất học hàm đó chỉ là một chức "Conjoint" hay trường hợp người ta quảng cáo là "Fellow" của một đoàn thể chuyên môn về giải phẫu, nhưng trên thực tế họ chỉ là "Member"! Có người chỉ có văn bằng cử nhân (không phải y khoa) nhưng lại tự xưng là "bác sĩ" giữa công cộng!(18)

Sự khệnh khạng bằng cấp và hám danh không chỉ có trong cộng đồng người Việt hải ngoại, mà còn rất phổ biến ở trong nước. Ở Việt Nam, có thời người ta còn phân biệt Tiến sĩ đệ tam cấp, Phó tiến sĩ và Tiến sĩ. Cũng như ở một vài nước Âu châu, ở Việt Nam, một số nhà khoa bảng thích dùng cả hai học hàm và học vị trước tên của họ, kiểu như "Giáo sư Tiến sĩ ABC". Thậm chí có thời người ta còn phân biệt "Giáo sư I" và "Giáo sư II"!? Trong các buổi lễ tốt nghiệp, người ta đọc tên các vị giáo sư kèm theo những học vị và học hàm dài lê thê, khiến cho người nghe phải sốt ruột. Một nhà khoa học danh tiếng ở trong nước và cũng là một nhà toán học có tiếng trên thế giới có lần nhận xét một cách chua chát: "Không có nước văn minh nào mà trên mặt báo hay các buổi lễ long trọng xuất hiện một mật độ học vị, bằng cấp, chức danh khoa học dày đặc nhưng không mấy tương xứng với thực chất như nước ta." Tôi thiết tưởng nhận xét này vẫn hợp với tình hình trong cộng đồng người Việt ở hải ngoại.

Cuối cùng, một điều khá phổ biến trong những người có bằng cấp là họ thường hay nghĩ rằng học vị và học hàm của họ là ưu việt hơn bằng cấp của người khác, trường đại học hay cao đẳng và các giáo sư mà họ theo học là danh tiếng hơn, tốt hơn, giỏi hơn, v. v... những nơi khác và giáo sư khác. Điều này không những chỉ thấy ở giữa cá nhân, mà còn giữa các quốc gia. Dù không nói ra cụ thể, nhưng chất lượng bằng cấp thường được đánh giá một cách chung chung dựa vào nền khoa học kỹ thuật của một nước hơn là dựa vào khả năng của người có bằng cấp. Chính vì thế mà những nước đã phát triển như Mỹ, Anh, Úc, Pháp, v.v. không chịu công nhận bằng cấp từ các nước nghèo hơn như Việt Nam, Trung Quốc, Ấn Độ, v.v... Lý do không công nhận bằng cấp nước ngoài thường được núp dưới danh nghĩa "tiêu chuẩn", tức là theo họ, những chuyên viên được đào tạo trong các nước đang phát triển có tiêu chuẩn thấp hay không đạt tiêu chuẩn mà họ đưa ra.

Chính người viết bài này từng được hỏi một cách hết sức mỉa mai là "Anh biết làm phân số không?" khi xin học lại đại học ở Sydney (Úc)! Thật là khôi hài và ấu trĩ nếu người Úc cho rằng kỹ sư của họ tài giỏi hơn kỹ sư người Đức, hay bác sĩ của họ được đào tạo kỹ hơn các bác sĩ người Mỹ hay Pháp, hay các nhà toán học của Úc khá hơn các nhà toán học Việt Nam hay Ấn Độ. Thế mà đó là những nguyên nhân họ đưa ra để không chịu công nhận bằng cấp của các nước ngoài Úc! Nhưng xét cho cùng, ngoài một vài lý do chính đáng, sự không công nhận bằng cấp nước ngoài cũng là một cách phô trương thanh thế của họ, những nước giàu có, và bảo vệ thị trường lao động cho sinh viên người bản xứ, chứ chẳng liên quan gì đến tiêu chuẩn và phẩm chất đào tạo.

Mục đích thực và chính của việc học hành là để mở mang trí tuệ, trau giồi kiến thức, rèn luyện nhân cách, và làm người hữu ích cho xã hội. Bằng cấp và chức vụ khoa bảng không phải dùng để đo những kết quả trên, mà chỉ là những phân chia đẳng cấp khoa bảng rất tương đối. Bằng cấp, dù là học vị cao nhất như tiến sĩ, chỉ là một bước đầu trong hoạt động khoa học, và tự nó không nói lên được khả năng chuyên môn của nhà khoa học. Tương tự, một học hàm cao nhất như giáo sư cũng không phản ánh chính xác được mức độ đóng góp vào kho tàng tri thức của nhân loại. Người trí thức chân chính chỉ nghĩ đến những đóng góp có giá trị nhằm đem lại phúc lợi thực sự cho nhân loại, và không bao giờ phụ thuộc vào học vị, học hàm hay các danh xưng phù phiếm để gây ảnh hưởng trong cộng đồng.

Tác giả: Nguyễn Văn Tuấn

Ghi chú

Người viết bài này xin chân thành cám ơn anh Tiến sĩ Mai Thanh Truyết, một Nhà giáo Việt Nam, người đã đọc bản thảo và góp ý làm sáng tỏ hơn về hệ thống bằng cấp ở Pháp.

[1] Thực ra, Universitas of Doctors chỉ là một hiệp hội (Guild) của những "Thầy". Theo tiếng Latin, chữ Doctorem cũng có nghĩa là "Thầy".

[2] Nhiều tờ báo Việt ngữ hải ngoại thường dịch [không chính xác] những trường "Community College" ở Mỹ là "Đại học cộng đồng", và những người tốt nghiệp từ các trường này là "kỹ sư".

[3] Tuy nhiên, trong những năm gần đây các trường này đều trở thành đại học chính thức. Chẳng hạn như trường "University College of Bristol" tuy thành lập từ năm 1876, nhưng mãi đến năm 1909 mới được công nhận là "The University of Bristol"!

[4] Ở Việt Nam còn xảy ra một sự ngộ nhận hết sức "tai hại" trên báo chí về một em học sinh người Việt Nam, 17 tuổi, đỗ đầu ở một trường trung học tư thục ở Anh; nhưng có lẽ vì nhầm lẫn trường "college" mà em theo học là "đại học", nên nhà báo đã vội viết bài ca ngợi em là một "thần đồng tốt nghiệp đại học năm 17 tuổi"!

[5] Tôi không biết tiếng Việt ta có danh từ nào để dịch văn bằng "Associate". Có người đề nghị dùng "Chứng chỉ" để dịch chữ này; tuy nhiên "Chứng chỉ" có lẽ chính xác hơn với "Certificate". Tôi đề nghị dùng cụm từ "Cử nhân dự khuyết" cho văn bằng "Associate".

[6] Hai văn bằng Bachelor of Science (B.Sc. hay B.S.) và Bachelor of Arts (B.A.) thường được dịch là "Cử nhân Khoa học" và "Cử nhân Văn chương". Tuy nhiên, hai văn bằng này rất bao quát. Một sinh viên theo học môn Tâm lý học (Psychology) có thể tốt nghiệp với văn bằng B.A. nếu bộ môn này chịu sự quản lý của phân khoa Văn chương (Faculty of Arts), hoặc B.Sc. nếu bộ môn Tâm lý học chịu sự quản lý của phân khoa Khoa học (Faculty of Science).

[7] Dựa vào tính cách đào tạo và chương trình học, tôi đề nghị dùng cụm từ "Cao học dự khuyết" cho văn bằng "Graduate Diploma".

[8] Ở hải ngoại, văn bằng Master thường được dịch là "Cao học". Tuy nhiên, trong thời gian gần đây, chính quyền trong nước đã có văn bẳn chính thức gọi những người có văn bằng Master là "Thạc sĩ".

[9] "Doctorate" là một danh từ chung dùng để chỉ học vị "Tiến sĩ". Chữ "Tiến sĩ" có lẽ được xuất phát từ chữ Hán mà tiếng Anh phiên âm là "Chin-shih" (và tiếng Anh dịch là "Doctor"). Hình như văn bằng này được cấp lần đầu tiên vào năm 1313 (dưới triều đại nhà Tống); vào năm này, một cuộc thi tuyển đặt dưới sự chủ tọa của vua được tổ chức. Qua kết quả của kỳ thi này, có 300 thí sinh được cấp danh hiệu Chin-shih; trong số này, có 75 người gốc Mông Cổ, 75 người quê quán ở miền Nam Trung Quốc, 75 người quê quán ở miền Bắc Trung Quốc, và 75 người có quốc tịch ngoại quốc.

[10] Trong một bài báo gần đây ở trong nước, một nhà giáo dục đề nghị dùng cụm từ "Tiến sĩ cao cấp" để gọi các thí sinh này!

[11] Học vị Doctorat du Troisième Cycle thường được dịch sang tiếng Việt là "Tiến sĩ đệ tam cấp", và Doctorat d'Etat là "Tiến sĩ quốc gia". Tôi không rõ học vị Doctorat Université được dịch sang tiếng Việt là gì.

[12] Ở trong nước, Kandidat Nauk (Candidate in Science) được dịch là "Phó Tiến Sĩ", và Doktor Nauk (Doctor of Science) được dịch là "Tiến Sĩ". Tuy nhiên, trong năm 1999, Chính phủ Việt Nam đã có quyết định gọi cả hai văn bằng này chung là "Tiến sĩ".

[13] Trong các đại học Anh và Úc, không có chức vụ Assistant Professor, và những chức vụ như Lecturer và Senior Lecturer được xem là tương đương hay cao hơn với Assistant Professor của Mỹ. Tuy được gọi là "Assistant Professor", nhưng những giáo sư này không phải là phụ tá (assistant) cho các giáo sư cao hơn, mà là một giáo sư hoàn toàn độc lập. Vì thế, các học hàm ở bậc này có lẽ nên dịch sang tiếng Việt là "Giảng sư".

[14] Trong một vài trường đại học theo hệ thống của Anh Quốc, học hàm "Reader" được xem là tương đương với "Associate Professor". Ở trong nước, Associate Professor được dịch là "Phó Giáo sư".

[15] Học hàm "Professor" thường được dịch là "Giáo sư" ở trong nước. Đây là một học hàm cao nhất trong đại học. Tuy nhiên, cũng có trường đại học ở Mỹ phong học hàm "University Professor" (thường được xem là cao hơn cả "Professor") cho các giáo sư có thành tích nghiên cứu khoa học xuất sắc và có đóng góp lớn cho trường.

[16] Các bài báo này thường phải qua một giai đoạn "kiểm duyệt" tương đối gắt gao (thường từ 6 tháng đến một năm) trước khi được chấp nhận cho xuất bản. Người kiểm duyệt thường là đồng nghiệp làm cùng ngành, nhưng đương sự (người có bài báo được duyệt xét) không biết họ là ai. Các tạp chí có chất lượng cao chỉ nhận công bố khoảng 1 tới 20% các bài báo khoa học được gửi tới tòa soạn. Vì thế, nhá khoa học nào có nhiều công trình được công bố trên các tờ tạp chí có uy tín thường dễ được nể trọng trong ngành nghề của mình, và có cơ hội được thăng tiến trong nấc thang khoa bảng.

[17] Ở trong nước, các thành viên trong các Academy (Hàn lâm viện) thường được gọi là "Viện sĩ" (Hay Academician). Đây là một học hàm rất nghiêm túc. Tuy nhiên, phần đông các nhà khoa học ở trong nước và ngay cả ở hải ngoại hình như vẫn chưa phân biệt được sự khác nhau giữa một viện hàn lâm nghiêm túc và những viện hàn lâm thiếu nghiêm túc như "The New York Academy of Science", nên vẫn tự nhận mình là "Viện sĩ" trong các viện hàn lâm "dỏm" này.

[18] Có người Việt tốt nghiệp Bachelor of Optometry (tạm dịch: Cử nhân Khúc xạ học, tức là đo mắt), nhưng anh lại trịnh trọng quảng cáo là "Bác sĩ Nhãn khoa".
Nguyễn Văn Tuấn