1
Cộng đồng người Việt ở Đức khác với cộng đồng người Việt ở các nước khác. Là họ ít ở tập trung, và ít sinh hoạt cộng đồng hơn.
Không như cộng đồng người Việt ở các nước Mỹ, Úc, Pháp, Hà Lan...Là những đất nước cho phép dân nhập ngoại lập khu dân cư cùng chủng tộc. Người Việt ở Đức, ở rãi rác vì vậy ít thân thiện tình đồng hương hơn.
Mặt khác cộng đồng người Việt ở Đức có sự cách biệt rất xa giữa cộng đồng "thuyền nhân" với cộng đồng "bức tường Berlin".
Cộng đồng "thuyền nhân" là những người tỵ nạn sau 1975. Còn cộng đồng "tường nhân" là cộng đồng người Việt nhập cư vào Đức sau bức tường ngăn chia giữa Đông và Tây Berlin sụp đổ. Họ khác nhau rất xa về cách sống, khả năng hội nhập, phong cách làm ăn và kể cả về tư tưởng.
Cộng đồng "thuyền nhân" thế hệ thứ nhất, đa số là ít làm việc chính thức, thường là họ hưởng chế độ bảo hiểm xã hội là chính. Thế hệ thứ 2 thì hầu hết có bằng cấp và thường có công ăn việc làm ổn định trong các công sở, xí nghiệp.
Cộng đồng "tường nhân" thì việc hội nhập và tìm kế sinh nhai khó khăn hơn. Đa số họ phải có công ăn việc làm mới có thể bảo đảm được quyền cư trú.
Xã hội lao động Đức là xã hội bằng cấp, nếu không có bằng cấp thì rất khó tìm việc trong các công sở, vì vậy hầu hết cộng đồng "tường nhân" phải bắt buộc trở thành người tự kinh doanh. Chính vì vậy mà hầu hết kiều bào trong cộng động "tường nhân" đều là những "ông chủ bà chủ". Họ hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực: Kinh doanh nghề phục vụ ăn uống, kinh doanh bán áo quần giá rẽ và đồ lưu niệm, và nghề làm móng tay giả.
Trong số những người lam lũ quần quật với nghề nấu bếp, đứng bán hàng rong hoặc là thợ làm móng tay có rất nhiều người là dân khoa bảng đã tốt nghiệp đại học và trên đại học ở các nước Đông Âu trước đây. Vì vậy có rất nhiều người ngoại quốc kinh ngạc khi biết những người Việt làm đầu bếp, đứng bán hàng rong hay là thợ làm móng tay là những kỹ sư, bác sĩ, thầy cô giáo khi xưa. Và không những là người ngoại quốc mà ngay người Việt của mình cũng ít khi ngờ tới.
Tôi cũng đã một lần bị sửng sốt vì bất ngờ như vậy.
Tôi có một người bạn là thành viên của cộng đồng "tường nhân". Anh ta có một nhà hàng ăn uống đặc sản Á châu. Năm nào anh ta cũng nhờ tôi đến trong coi một thời gian, để anh ta đưa gia đình về nghĩ phép ở Việt Nam.
Nhà hàng anh ta có một đầu bếp rất kỳ cựu. Anh này đã làm đầu bếp ở đó từ khi mới dựng nhà hàng ra cho tới nay. Đây là một trường hợp khá hy hữu ở Đức. Hiếm khi mà một đầu bếp gắn bó với chủ lâu đến như vậy.
Nhiều lần tôi đến trong nom nhà hàng cho bạn, biết tên anh đầu bếp này là Tuấn, nhưng rất ít khi trò chuyện. Một phần tôi ngại trò chuyện với đồng hương, vì bất đồng ngôn ngữ (tôi nói giọng miền Trung đặc sệt, nên ít ai hiểu). Một phần do anh Tuấn cũng thuộc loại kín như hũ nút, cạy miệng cũng khó ra được một câu, cho nên gặp nhau, thấy nhau, nhưng hầu như không biết gì về nhau.
Anh Tuấn là người cực kỳ ít nói, anh cứ lầm lầm lỳ lỳ làm việc vậy, tới buổi đến bật bếp, chuẩn bị hàng họ, khách đến xóc chảo, hết buổi làm chui ngay vào phòng, hầu như chẳng giao tiếp với ai.
Anh Tuấn không hút thuốc, không uống bia, không sắm xe, và rất ít đi chơi xa.
Ngay cả chủ nhà hàng cũng không hề biết anh ta làm gì sau cánh cửa phòng của anh ta, mỗi khi tan ca làm. Không một ai biết cái thế giới riêng của anh ta trong căn phòng ấy có những cái gì.
Người ta chỉ biết ngoài thời gian nấu bếp cho nhà hàng ra, thì anh không đi đâu cả, không bạn bè, không chơi bời, không giao tiếp. Ngay cả thời gian nghĩ phép năm anh ta cũng nhốt mình kín mít trong căn phòng ấy.
Anh bạn chủ nhà hàng nói, anh Tuấn có giấy tờ định cư đầy đủ, đã nhập quốc tịch, nhưng chưa thấy anh về Việt Nam lần nào, suốt mười mấy năm nay chỉ nghe nói anh có đi Tiệp một vài lần rồi thôi, không thấy anh nhắc nhở gì thân nhân ở Việt Nam cả, và ngay quê của anh ta ở đâu cũng không biết nữa.
Chủ nhà hàng thường nói đùa, tiền lương mỗi tháng vài ngàn, ăn uống, nghĩ ngơi phòng ốc của nhà hàng bao, không bia, không rượu, không thuốc lá, không gái gú chơi bời, gần 20 chục năm, có lẽ anh tiết kiệm được gần cả triệu Euro rồi nhể. Anh Tuấn chỉ nhếch mép cười, đưa hai tay ngoáy ngoáy trước mặt, ý nói trắng tay, không có đồng nào.
Có lần tôi loay hoay vẽ cái bản vẽ thiết kế trục chuyển động Galaxy cho "chiếc giường thần kỳ" của tôi. Vẽ mãi không được, tôi bực mình văng tục rồi vò mấy bản vẽ ném vào thùng rác.
Hôm sau thấy tôi, anh Tuấn đưa cho tôi một tập giấy, rồi lẳng lặng bỏ đi. Giở tập giấy ra, tôi kinh ngạc đến tê người.
Cái hộp biến tốc chuyển động Galaxy mà tôi mong ước được thiết kế và vẽ ra tường tận đến từng chi tiết ốc vít nhỏ nhất. Tôi trố mắt lên nhìn anh đang cắm cúi ướp thịt trong xó bếp, định chạy lại hỏi anh, thì anh đưa một ngón tay lên miệng làm dấu, im lặng, đừng nói gì cả.
Tan buổi làm, tôi đứng chận ngay cầu thang nơi dẫn lên phòng anh ở. Tôi theo anh đến tận cửa phòng. Anh không mời tôi vào nhà mà đứng ngay trước của nói chuyện.
Tôi hỏi anh sao biết ý của tôi mà vẽ bản vẽ cụm chuyển động galaxy hay vậy. Anh nói, anh liếc qua mấy bản vẽ vứt trong thùng rác là biết tôi muốn gì rồi. Hỏi gạn mãi mới biết anh là kỹ sư chế tạo máy, tiến sĩ cơ học lượng tử, tốt nghiệp ở Tiệp Khắc.
Nói chuyện một hồi, tôi hỏi anh, anh không mời tôi vào nhà à?. Anh trả lời gọn lỏn, không!. Tôi cười trêu, có gái trong ấy à. Anh mĩm cười, ừ. Tôi không tin ghé mũi vào hít hít, ngửi thấy mùi sơn, mùi dầu ngai ngái. Tôi hỏi, anh vẽ sơn dầu đấy à. Anh sa sầm nét mặt, đẩy vào vai tôi nói, lắm chuyện, chú về đi. Nói xong anh mở hé của lách người vào và đóng sầm cửa lại.
Từ đó về sau, nếu có gặp chuyện gì trắc trở về cơ về điện với mấy cái thiết bị vớ vẫn của tôi, tôi đều tìm đến nhờ vả anh. Cũng có thể nói, tôi và anh khá thân nhau.
Anh bạn chủ nhà hàng nói, tôi là người biết cạy miệng anh Tuấn, và là người duy nhất được anh Tuấn cho vào phòng.
Anh ta hỏi tôi, mày thân với anh Tuấn thế, mày có biết hoàn cảnh gia đình của anh ấy ra sao không, và anh ấy làm gì mà tối ngày cứ thui thủi trong phòng vậy.
Tôi nói, thú thật tớ chẳng biết gì về gia cảnh của anh Tuấn cả, vì có hỏi anh ấy cũng không nói, còn trong phòng anh ấy cũng chẳng có gì cả ngoài một khung vẽ được phủ kín, anh Tuấn đang vẽ dở một bức tranh, đã vẽ mười mấy năm nay rồi nhưng chưa xong, bức tranh vẽ cái gì thì tớ cũng không biết, vì anh Tuấn không cho tớ xem.
2
Anh Tuấn rất ít khi đi ra ngoài phố, một tháng hoạ hoằn lắm mới thấy anh đi phố vài lần để mua sắm vật dụng cá nhân. Thế mà run rủi thế nào, 2 năm trước anh ra phố lại bị xe đụng ngay vạch đèn đỏ trước của Học viện Y khoa UKE
Lúc chúng tôi được vào thăm anh, khi anh đã qua thời kỳ nguy hiểm ở khoa chấn thương chỉnh hình. Chúng tôi rất kinh ngạc khi thấy một cô bác sĩ thực tập còn rất trẻ lúc nào cũng quấn quít túc trực bên anh. Đôi khi còn thấy cô ta ngồi bên giường, nắm lấy tay anh, mắt nhìn anh và rớm lệ.
Chúng tôi không biết chuyện gì xảy ra. Hỏi gặng mãi thì cô bác sĩ trả lời đúng một câu không phải giọng người Đức: "Vì tôi mà ông ấy bị tai nạn, ông ấy là bố của tôi".
Chuyện này sau khi anh Tuấn bình phục chúng tôi mới biết cặn kẻ, chứ lúc đó thì cứ mu mu mơ mơ tưởng như chuyện trên trời vậy.
Từ ngày ra viện, dù bị liệt hai chân, nhưng anh Tuấn vui vẻ và cởi mở hẳn lên.
Lần đầu tiên mới thấy anh nói nói cười cười. Hình như anh không mấy quan tâm đến tình trạng của anh sau tai nạn. Và người ta cũng không hiểu vì sao, mới trong một thời gian rất ngắn, anh đã thật quen thuộc với tình trạng của một người bại liệt ngồi xe lăn.
Mọi động tác chuyển dịch đi lại và thực hiện thao tác đời sống bằng tay của người thiếu đôi chân, đối với anh rất thuần thục. Nhìn anh sống người ta cứ tưởng anh đã quen với việc không có đôi chân từ hàng chục năm rồi vậy.
Cái lạ nhất là tinh thần của anh, anh không ủ ê kín mít như xưa nữa. Anh trở thành một người yêu đời, vui nhộn và rất dễ gần gũi, chan hoà.
Tất cả là nhờ cô bác sĩ thực tập trẻ trung và xinh đẹp kia.
Cô ta đúng là con gái của anh Tuấn thật. Bữa anh Tuấn đi phố, lúc mua sắm gần UKE, nhác thấy có người con gái giống người yêu cũ của mình, anh vội vả băng qua đường để nhìn cho rõ, vì vội vả không để ý đến đèn đỏ, nên anh bị xe đụng.
Duyên số thế nào mà cũng chính cô gái kia lại là người sơ cứu và gọi xe cứu thương cho anh.
Lúc đưa vào viện UKE, lại cũng đúng ngay phiên trực Oliska (Tên con gái anh Tuấn). Lúc lục giấy tờ làm thủ tục, Oliska mới bàng hoàng, biết người bị nạn là Bố mình, vì cô đã thuộc lòng tên họ, ngày sinh tháng đẻ của người Bố mà cô đang có ý đi tìm khi sang Đức thực tập.
Anh Tuấn kể lại, anh và mẹ Oliska yêu nhau hồi anh đang còn làm phiên dịch ở Tiệp. Mẹ của Oliska là người có hai dòng máu, Sloven lai Digan. Người Digan có vẻ đẹp rất hoang dã và huyền bí, lại lai với người gốc Âu nên vẻ đẹp lại càng kiều mị hơn.
Họ yêu nhau khi mẹ Oliska mới có 17 tuổi. Yêu nhau được mấy năm thì xảy ra cuộc cách mạng nhung. Tình hình ở Tiệp tương đối rối ren. Cô người yêu của anh Tuấn ham vui bỏ anh Tuấn theo một người Việt Nam khác lên Praha ở. Mặc dù lúc đó biết đã có thai với anh Tuấn, nhưng anh Tuấn thuyết phục mãi vẫn không chịu quay về. Anh Tuấn buồn, bỏ sang Đức sinh sống.
Mẹ của Oliska sắp đến ngày sinh, về Ostrava tìm anh lại Tuấn, thì không gặp lại được nữa. Vừa mới sinh con lại bị nhiều áp lực đời sống, nên mẹ Oliska lâm vào tình trạng khủng hoảng tinh thần. Cuối cùng thì mắc chứng điên loạn, sau đó được đưa vào quản thúc trong bệnh viện tâm thần ở Brno. Oliska sau đó được một gia đình hiếm con nhận về làm con nuôi.
Chuyện xảy ra, lúc anh Tuấn đang ở Đức nên anh không biết gì. Khi có giấy tờ định cư hợp lệ, anh xin được vi sa về lại Tiệp tìm thăm lại người yêu, thì lúc đó mẹ của Oliska đã thành một người đàn bà điên không còn nhớ chuyện gì nữa.
Anh Tuấn muốn tìm nhận lại con gái thì vì thủ tục nhận con nuôi không cho phép tiết lộ thân phận, nên không biết con mình lưu lạc phương trời nào. Anh lại muốn đón mẹ Oliska sang Đức để nuôi dưỡng, nhưng luật lệ không cho phép.
Gần 10 năm trước đây, mẹ của Oliska bị bạo bệnh mất, từ đó anh không còn quay lại Tiệp nữa. Và cũng từ đó anh trở thành một chiếc bóng với chính bản thân mình.
Khi mẹ của Oliska chết, Oliska được thông báo đến nhận di vật của mẹ.
Trong số di vật của mẹ Oliska để lại có cuốn nhật ký hồi trẻ của bà ta, cùng với một vài tấm ảnh của anh Tuấn, và có ghi chú đó là bố của Oliska cùng tên họ ngày sinh tháng đẻ của anh Tuấn.
Oliska học y khoa ở Tiệp và xin sang Đức thực tập để cố ý tìm lại anh Tuấn. Và vì thế mà họ gặp nhau trong một hoàn cảnh oái oăm và nghiệt ngã như vậy đó.
Trong thời gian Oliska còn thực tập ở Đức, cô thường lui tới chăm sóc anh Tuấn rất tận tình. Cộng đồng người Việt ở đây ai cũng trầm trồ khen Oliska là người Âu trẻ tuổi mà tính hiếu thảo còn hơn cả nhiều người Việt.
Oliska hết hạn thực tập, phải trở về Tiệp. Cô muốn đưa anh Tuấn về Tiệp để chăm sóc, anh Tuấn không chịu. Ngược lại anh còn ép cô ra luật sư để làm thủ tục nhượng lại toàn bộ cổ phiếu mà bấy lâu anh mua trữ, cùng với số tiền tiết kiệm được gửi đầu tư trong các hãng bảo hiểm. Nghe đâu tổng số tất cả hồi môn anh để lại cho con gái xấp xỉ cả triệu Euro lận. Anh giao lại toàn bộ cho Oliska không giữ lại một đồng nào.
Oliska về Tiệp mua nhà cửa, sắm sửa ô tô, và mở được một phòng mạch tư.
Khi cuộc sống tạm ổn định. Oliska sang Đức một mực năn nỉ anh Tuấn phải qua Tiệp sinh sống, để cô ấy tiện bề chăm sóc. Cô khóc lóc và nhờ vả hết người này đến người khác khuyên bảo, nhưng anh không chịu. Cuối cùng Oliska đành phải thui thủi quay về.
Oliska quả đúng là cô gái hiếu thảo hiếm thấy. Anh Tuấn không sang thì tháng nào cô cũng đánh xe sang thăm anh.
Trước đây mọi người khuyên anh, thì anh cau có nói, tấm thân tàn phế này sang đó chỉ làm khổ con gái thôi, chứ có tốt lành gì cho nó đâu. Sau này thấy Oliska đi lại vất vả, nhất là vào mùa băng tuyết. Nghe mọi người khuyên lần nữa, anh cúi đầu lặng thinh và cuối cùng cũng chấp nhận sang Tiệp sống cùng con gái.
3
Vào mùa Hè năm trước. Oliska hốt hoảng gọi điện thoại sang tìm anh. Và cuối cùng thì tự cô đánh xe sang. Oliska nói, hơn 2 tuần rồi không thấy anh đâu cả. Bên Tiệp đã báo cảnh sát truy tìm người mất tích. Đã tìm khắp nơi trong cộng đồng người Việt bên đó những cũng không ai thấy anh đâu.
Oliska cho hay, tháng trước cô và anh Tuấn có xích mích, vì cô muốn lắp ráp một cầu thang máy cho xe lăn trong nhà để anh tiện đi lại và sinh hoạt, nhưng anh không chịu và bố con có to tiếng với nhau. Cô sợ anh buồn bỏ về Đức
Biết vậy, chúng tôi bên này gọi điện thoại đi khắp nơi những chổ anh quen biết, nhưng chẳng nơi nào biết tức của anh
Oliska lại từ Tiệp gọi điện thoại sang, báo cho tôi hay, cô đã thông báo cho đại sứ quán Việt Nam nhờ tìm anh Tuấn ở Việt Nam. Nhưng người ta nói quê anh ở Củ Chi, hiện ở đó không còn ai là thân thích. Anh là con mồ côi, học trường Lý Tự Trọng ở Sài Gòn, rồi sang Tiệp học đại học từ hồi xưa đến giờ, chưa một lần nào trở về Việt Nam cả. Anh còn có một người chị, hiện đang cư ngụ ở Úc.
Khoảng gần 1 tháng sau, Oliska lại gọi điện thoại sang nói với tôi là sẽ đi Úc để tìm bố. Tôi bảo, nếu muốn biết anh ấy có sang Úc không thì chỉ cần nhờ hải quan ở sân bay tìm trong hồ sơ xuất cảnh là biết, chứ cần gì sang tận bên đó. Oliska nói, biết đâu anh đi với hộ chiếu tên khác, tìm anh ở Úc là hy vọng cuối cùng của cô.
Tuy không phải là người bạn chí cốt của anh Tuấn, nhưng qua nhiều lần giao tiếp với anh tôi hiểu khá rõ về tâm tư của anh. Tôi không muốn nói ra nhưng tôi đã thầm đoán được anh đang ở đâu. Nghe Oliska sốt sắng đi Úc tìm anh, với niềm hy vọng rất lớn. Tôi rất ái ngại cho cô ta nên tôi quyết định sang Tiệp một chuyến.
Oliska đưa tôi lên thăm căn phòng của anh ở gác 1. Tôi sửng sờ trước một bức họa rất sống động treo treo ngay chính giữa phòng.
Tôi cứ ngỡ có hai Oliska đang hiện diện ở đây, một Oliska đang đứng bên tôi và có một Oliska nữa đang e ấp đứng bên một khóm hoa hướng nhật quì rực rỡ màu vàng óng ả trong bức tranh
Thấy tôi trân trân nhìn bức họa một hồi lâu, rồi lại quay sang ngắm nhìn Oliska. Oliska buồn rầu nói, bố bảo Oliska rất giống mẹ, bức họa ấy bố vẽ xong trước khi gặp Oliska, bố vẽ mẹ đấy.
Tôi im lặng không nói gì. Mặc dù trước đây anh không cho tôi xem bức họa trong phòng anh, nhưng tôi biết Oliska nói đúng, bức họa này anh đã bắt đầu vẽ hàng chục năm về trước rồi. Điều tôi kinh ngạc là tôi không ngờ anh Tuấn có một năng khiếu hội họa tuyệt vời như vậy. Và càng không ngờ Oliska giống mẹ đến thế là cùng.
Tôi nói không ngoa, nếu ánh sáng trong phòng đừng sáng quá, và đặt bức họa xuống bên Oliska, có lẽ chúng ta rất khó phân biệt đâu là Oliska thật và đâu là Oliska trong tranh.
Chỉ có điều là đôi mắt của thiếu nữ trong tranh không trong sáng và xanh nâu như mắt của Oliska. Cho dù đôi mắt ấy thật sóng động, nhưng vẻ đẹp rất mơ hồ xa xăm. Mới nhìn thoáng qua, khuôn mặt và đôi mắt thì thấy ánh lên một nét gì đó rất tinh nghịch, hồn nhiên.
Lắng nhìn kỹ lại thì lại thấy cái vẻ tinh nghịch hồn nhiên đó bổng trở thành như mệt mỏi rã rời. Khuôn mặt đó, ánh mắt đó được đặt bên mấy đóa hướng nhật quì vàng óng lên rực rỡ, tạo nên một nét tương phản rất khó thẩm định, nửa như cháy bùng lên, nửa như quặn thắt lại, có cả sự nguội lạnh mà cũng có cả nét nồng nàn...
Một bức tranh thật lạ. Nó có sức cuốn hút ta vào trong sự sống động tuyệt vời của nó, nhưng lại như muốn đẩy tầm nhìn và cảm xúc của ta trượt ra ngoài bố cục của bức tranh.
Lúc thấy tôi tiến tối gần có ý như sờ vào mấy đóa hướng nhật quì như để muốn phân biệt là thật hay giả. Oliska khe khẽ nói trong rưng rưng, bố nói ngày xưa mẹ rất thích loài hoa này.
Nghe Oliska kể lại, tôi mới chợt giật mình nhớ ra, có lần anh Tuấn nói với tôi: "giá như một ngày nào đó được nằm giữa cánh đồng hướng nhật quì rực rỡ, ngẩng nhìn những đám mây bay trên bầu trời rồi thả hồn mình vào đó để thanh thản bay về với vô tận thì còn gì bằng nhỉ"
Nhớ đến đó, tôi quay lại hỏi giật Oliska, ở ngoại ô Brno có cánh đồng hoa hướng dương nào không?
Nghe tôi hỏi, Oliska tái mặt và từ từ sụm người xuống, ôm mặt nức nở:
- Hôm trước lúc bố mất tích, bố có nói, năm này hoa hướng dương nở muộn hơn mọi năm....
09.02.11
Tuesday, February 8, 2011
HƯỚNG NHẬT QUÌ (Truyện)
Sunday, January 30, 2011
Tìm thầy số 1 mà học
Nhưng nói về cách sống thì đa số chúng ta lại hành động ngược lại, một cách rất ngu dốt. Mấy đứa bạn thì đứa nào cũng dốt bằng mình hay dốt hơn mình, chẳng biết gì cả, vậy mà ta lại rất chịu khó nghe chúng nó ba hoa chích chòe về “đạo sống” và nhập tâm thực hành lời chúng nó, như là “sống thì phải biết dối trá lươn lẹo, không tham nhũng thì không sống được, cây ngay chết đứng, có tiền mua tiên cũng được…” Các vị thầy lớn về đạo sống của thế giới, cho đến ngày nay, chỉ có 3 người vượt trội: Thích Ca, Giêsu, Mohammad. Muốn biết cách sống rất sâu rất mạnh thì học từ ba người này. Mỗi người đã có mặt từ hơn kém 2000 năm trước, và cho đến ngày nay thì số đệ tử của mỗi người lên đến hàng tỉ. Các bạn, hãy quan sát kỹ về việc này. Nếu bạn rất rất giỏi, như Sigmund Freud, Jean Paul Sartre, sau khi bạn chết có lẽ một số ít người sẽ còn nhớ tên bạn khoảng 50 năm, đại đa số người chẳng hề biết bạn là ai. 100 năm sau khi bạn chết, nếu bạn rất rất giỏi, thì cũng chỉ vài ba người là còn nhớ tên bạn. Nếu một người đã mất 2 nghìn năm, mà số người biết đến tên người ấy lên đến hàng tỉ, người ấy nhất định là phải có diều gì đó rất hay cho thế giới học. Nếu các vị không có gì hay để học thì đương nhiên là tên tuổi các vị đã biến mất theo dòng thời gian cả nghìn năm nay rồi. Kinh tế thị trường mà! Sản phẩm hay thì được ưa chuộng mãi, sản phẩm tồi thỉ tự khắc chết theo thời gian. Rất tiếc là đa số người thích tôn Thích Ca, Giêsu và Mohammad lên hàng thần thánh để vào nhà chùa nhà thờ nhang đèn lễ bái với các vị, xong rồi bước ra ngoài và vẫn hành động bừa bãi ngu dốt mà không chịu học các vị một tí nào. Các vị này là các vị thầy dạy chúng ta sống. Các vị không muốn và không cần được chúng ta tôn thờ như thần. Các vị chỉ muốn ta học và hành động theo lời các vị chỉ bảo. “Từ nay về sau, các đệ tử của Ta phải biết triển chuyển thực hành, thì đó là các thầy đã làm cho pháp thân thường trụ của Như Lai không bị hủy diệt!” (Thích Ca, Kinh Lời Dạy Cuối Cùng ). “Nếu ai yêu ta, người ấy sẽ làm theo lời ta.” (Jesus, John 14:23) Nhưng người ta thích đặt các vị lên ngai thờ giáo chủ, và lễ bái màu mè, và không thành tâm học tập giáo huấn của các vị. Đôi khi còn bóp méo điều các vị dạy thành các giáo điều quái dị. Thế mới là tồi! Cách sống của chúng ta là nền tảng của tất cả mọi việc khác của ta—công ăn việc làm, danh phận, tài sản, tình yêu, hôn nhân, gia đình, hạnh phúc, đau khổ… Không có việc gì trên đời quan trọng cho ta bằng cách sống của ta cả. Cho nên nếu các bạn sáng suốt thì hãy quan tâm vào cách sống, cách tư duy về cuộc sống, của bạn. Và tìm thầy tốt mà học. Học từ thầy tốt, có nghĩa là đọc chính lời các vị nói, quan sát hành động của các vị trong đời, suy ngẫm các lời nói và hành động để hiểu sâu hơn, và thực hành để thực sự sống và hiểu rốt ráo các điều đó. Đừng nghe qua lời người khác, dù đó là ai ở nhà thờ hay nhà chùa; các diễn giải thường đi xa nghĩa nguyên thủy, nghe một chút để lấy thông tin nguyên thủy và tự tìm hiểu thì tốt, nhắm mắt nghe theo thì hỏng. Đa số chúng ta rất là ngớ ngẩn. Tối ngày nghe theo cách sống của mấy lũ bạn cùng lắm là dốt ngang mình. Hãy học từ các vị thầy số 1 của lịch sử con người, vì cuộc đời của bạn đủ quan trọng để tìm thầy số 1 mà học.
Trong mọi lãnh vực trên đời, người không biết và không giỏi thì nhiều, bậc thầy giỏi thì lại rất hiếm—vẽ, vũ, nhạc, vật lý, triết lý, toán, y học… Và nếu bạn là học trò khôn ngoan, thì học bất cứ môn gì, bạn cũng muốn tìm bậc thầy số một trong thiên hạ để học.
Sunday, January 16, 2011
Power of Love – Jennifer Rush, Laura Branigan, Celine Dion
Đến năm 1987 Laura Brenigan thu âm bản này và khá thành công nhưng không thể qua mặt Jennifer Rush. Hầu như trong mọi thị trường Laura Brenigan không đạt đến mức Jennifer đã đạt trước đó. Celine Dion thu âm bản này năm 1993. Bản nhạc được dự tranh giải Grammy năm đó, và dự tranh American Music Award năm 1995. Đây là một trong nhưng bản Celie Dion hát thường nhất. Dưới đây chúng ta có videos của Jennifer Rush, Laura Branigan và Celine Dion. Lời thì thầm buổi sáng Vì em là của anh Em cảm thấy mất hút, nằm trong tay anh Vì em là của anh Chúng ta đang đi về điều gì đó Tiếng đập của tim anh Vì em là của anh (TĐH dịch) Songwriters: Gunther Mende, Jennier Rush, Mary Applegate, Candy De Rouge The whispers in the morning ‘Cause I am your lady Lost is how I’m feeling, lying in your arms ‘Cause I am your lady We’re heading for something The sound of your heart beating ‘Cause I am your lady We’re heading for somethingQuyền lực của tình yêu
Của tình nhân đang ngủ yên
Giờ đang cuồn cuộn như sấm động
Khi em nhìn vào mắt anh
Em ôm thân thể anh
Và cảm được mỗi chuyển động của anh
Lời anh ấm và dịu
Cuộc tình em không thể bỏ
Và anh là của em
Bât kì khi nào anh cần em
Em sẽ làm mọi điều em có thể
Khi thế giới bên ngoài
Thật là quá sức
Mọi sự đều chấm dứt khi em bên anh
Dù đôi khi
Có vẻ như em rất xa
Nhưng anh đừng bao giờ thắc mắc em ở đâu
Vì em luôn bên cạnh anh
Và anh là của em
Bât kì khi nào anh cần em
Em sẽ làm mọi điều em có thể
Nơi nào đó em chưa từng đến
Đôi khi em sợ
Nhưng em sẵn sàng học
Về quyền lực của tình yêu
Rất rõ
Bỗng nhiên cảm giác em không thể đi tiếp
Thành xa cả nhiều năm ánh sáng
Và anh là của em
Bât kì khi nào anh cần em
Em sẽ làm mọi điều em có thể
Chúng ta đang đi về điều gì đó
Nơi nào đó em chưa từng đến
Đôi khi em sợ
Nhưng em sẵn sàng học
Về quyền lực của tình yêuThe Power Of Love
Of lovers sleeping tight
Are rolling like thunder now
As I look in your eyes
I hold on to your body
And feel each move you make
Your voice is warm and tender
A love that I could not forsake
And you are my man
Whenever you reach for me
I’ll do all that I can
When the world outside’s too
Much to take
That all ends when I’m with you
Even though there may be times
It seems I’m far away
Never wonder where I am
‘Cause I am always by your side
And you are my man
Whenever you reach for me
I’ll do all that I can
Somewhere I’ve never been
Sometimes I am frightened
But I’m ready to learn
Of the power of love
Made it clear
Suddenly the feeling that I can’t go on
Is light years away
And you are my man
Whenever you reach for me
I’ll do all that I can
Somewhere I’ve never been
Sometimes I am frightened
But I’m ready to learn
Of the power of love
Tăng giá trị của bạn lên 10 lần ngay lập tức
Chúng ta đã lập đi lập lại rất thường xuyên rằng muốn có được tư duy tích cực sâu mạnh chúng ta phải luyện tâm mình liên tục và trường kỳ, nhiều năm. Không có mì ăn liền. Điều này rất quan trọng. Nhưng vào lúc khởi đầu, bạn có thể tăng giá trị của mình lên 10 lần, ngay lập tức, trong một ngày, chứ không phải đợi luyện tập nhiều năm. Đây là bước chuyển hóa lớn lúc đầu, ai cũng làm được, rất dễ làm. Hãy quan sát câu chuyện sau đây. Hòa là một cậu bé chăn trâu 16 tuổi ở làng Bến Nghé, thuở nhỏ chỉ học lên được lớp ba, rồi từ đó chăn trâu đến nay. Người ngợm đen đủi, bẩn thỉu, tóc tai bù xù lem luốc, áo quần rách rưới, nói năng cộc cạch… nói chung là nhìn rất giống… mục đồng. Bây giờ bạn mang Hòa về thành phố, nhờ Sỹ Hoàng thiết kế cho một bộ vest siêu sao, cây kéo vàng Mỹ Nhung cắt cho mái tóc siêu sao, Shiseido cho vào vài lượt kem dưỡng da bóng mịn… rồi ra công viên cho các nhiếp ảnh gia của tạp chí Đẹp chụp cho một mớ ảnh… Bây giờ thì Hòa giống ai các bạn? Có phải như là một người mẫu siêu sao không? Nói cách khác, giá trị của Hòa đã được tăng lên có thể là 100 lần, dù Hòa chẳng làm gì cả ngoại trừ ngồi yên để các chuyên gia thay đổi ngoại hình của mình. Và nếu Hòa muốn giữ mình được như siêu người mẫu mãi sau này, thì Hòa sẽ phải luyện tập đi đứng, ăn nói, tư duy, thể dục thể thao, khiêu vũ, phát triển kiến thức trường kỳ, cả đời. Bạn cũng có thể tăng giá trị của bạn ít nhất là 10 lần, hay 100 lần, ngay ngày đầu như thế, và sau đó thì phải tiếp tục luyện tập cả đời để bảo trì và thăng tiến. “Điểm nhảy vọt” buổi đầu ở đây là thay đổi tác phong bên ngoài. Tác phong bên ngoài thay đổi rất dễ, như là Hòa được các chuyên gia thay đổi bên ngoài. Tác phong “nhảy vọt” bên ngoài gồm 8 bước. 1. Mỉm cười cả ngày “Cả ngày” có nghĩa là “cả ngày”. Đừng bao giờ cau có, nhăn mặt. Nói chuyện với ai cũng vừa chăm chú nghe vừa mỉm cười. (Nếu một cô ngồi chăm chú nghe một cậu nói chuyện và miệng thì luôn luôn mỉm cười rất nhẹ, không bao giờ ngừng, thì đó là võ công bí kíp gọi là Nhiếp Hồn Đại Pháp, chàng nào thì cũng phải đi đoong). (Dĩ nhiên là cũng tùy chuyện. Không thể mỉm cười khi bạn mình nói cho mình biết bố bạn vừa qua đời! Thông minh một tí. Ta nói “cả ngày” có nghĩa là “cả ngày, tùy lúc”) 2. Chăm chú nghe, khi nói chuyện với bất cứ ai Chúng ta đã nói đến chăm chú nghe bên trên, bây giờ lập lại thành tiết mục riêng, cho rõ ràng. Khi nói chuyện luôn chăm chú nhìn người đối diện để nghe, đừng nghe mà mắt nhìn ra đường suy nghĩ đến chuyện khác. Rất bất lịch sự. 3. Không bao giờ nói điều gì tiêu cực Như là: Tôi không thích… tôi không ưa… tôi ghét… Hoặc là các cách nói xấu về người khác, như là “Chàng này rất láu cá”, “Cô này không tin được”, “Anh kia rất kiêu căng”… Hoặc tạo chia rẽ, như “Dân miền Trung xạo lắm”, “Dân Phật giáo rất dốt”… Hoặc làm cho người ta xuống tinh thần, như “Dân Việt toàn là ngu…”, “Trường mình thì có nghĩa lý gì với ai”, “Ôi, học cho lắm cũng thất nghiệp nếu mày không phải con ông cháu cha…” 4. Luôn luôn tìm điều để khen “Tìm” là để thấy sự thật, để khen thật chứ không khen láo. “Hôm nay chị mặc áo này đẹp quá”. “Wow cái cà vạt này của anh đẹp quá”. Thời trang là dễ khen nhất, vì nó nằm ngay trước mắt bạn. “Ý kiến đó của anh rất mới lạ. Em cần thời giờ suy nghĩ thêm. Nhưng ít nhất nó cũng rất sáng tạo.” Hay, “Anh thật rất kiên trì, em rất phục anh.” Khen cũng giống như không khí ta thở. Không bài giờ ta sợ có quá nhiều không khí. Không bao giờ bạn sợ khen quá nhiều, nếu bạn khen thành thật. (Nếu bạn khen láo ngoài miệng, thì một lời khen cũng đã quá nhiều). 5. Luôn luôn khuyến khích “Ồ chị mới mở nhà hàng? Hay quá, em chúc chị thành công. Em sẽ mang bạn bè vào quán chị để giới thiệu.” “Em tính học thêm thạc sĩ ban đêm hả? Hay quá, hay quá. Em siêng quá. Chị chúc em thành công sớm.” “Em tính đi học để thành ảo thuật gia hả. Wow, chị chẳng biết ất giáp mô tê gì về nghề đó cả, nhưng chị chúc em học vui học tốt và thành công trong nghề.” 6. Luôn luôn cám ơn Nhận một email về điều gì đó, gửi message cám ơn. Ai chỉnh mình điều gì đó, cám ơn. 7. Luôn luôn chỉ ra cho mọi người thấy các cái đẹp ngay trước mắt họ (mà họ không thấy vì họ quá gấp gáp) “Wow, mặt trời lên đẹp quá”. 8. Luôn luôn nói “Tôi có thể làm được điều đó” Trừ khi đó là điều ta biết 100% ta không thể làm, như là đi bộ lên mặt trăng. Nếu là các trường hợp khác, như là “Em có thể quản lý dự án này được không?” thì trả lời thành thật, “Em chưa quản lý một dự án loại này bao giờ, nhưng em tim là em sẽ làm được nếu anh bằng lòng hướng dẫn em và cho em thời gian để học từ anh.” (Muốn cho dễ nhớ các bạn có thể gọi tám bước này là Bát Quái Thần Ảnh Đại Pháp, phép lớn 8 bước cho hình ảnh thần kỳ của mình. Tám bước này rất dễ nhớ. Chẳng có gì là khó hiểu cả. Các cậu thông minh có lẽ đã dùng để theo đuổi các cô xưa nay: Mỉm cười, chăm chú nghe nàng nói, đừng mở miệng nói tiêu cực lăng nhăng, chỉ khen, khuyến khích nàng bất kì điều gì nàng muốn làm, cám ơn bất kì điều gì nhận được từ nàng, luôn luôn chỉ cho nàng thấy các nét đẹp chung quanh để nàng luôn yêu đời khi có mình bên cạnh, và luôn luôn nói “có thể” với nàng.) Tám điều bên ngoài giản dị này không cần thời gian luyện tập gì cả. Bạn có thể làm ngay hôm nay. Và chỉ như vậy là bạn đã tăng giá trị của bạn lên ít nhất là 10 lần, nếu không là 100 lần. “Giá trị” tăng có nghĩa là bạn sẽ có nhiều người mến hơn, phục hơn, có thể tìm việc nhanh hơn gấp 10, có thể được lên chức, tăng lương… Dĩ nhiên là tác phong bên ngoài là do tư duy bên trong điều khiển, mà tư duy thì phải luyện rất lâu. Cho nên thay đổi tác phong kiểu nhảy vọt thế này thì được, nhưng có thể bạn vẫn còn lọng cọng, vì tư duy bên trong chưa thuần thục. Không sao, hơi lọng cọng còn hơn chẳng biết gì. Rồi từ từ, nếu bạn cố gắng huấn luyện tư duy thì mọi lọng cọng sẽ từ từ biến mất và bạn sẽ thuần thục thành đại sư phụ. Đây là một bước chuyển hóa rất lớn, có thể làm ngay, rất dễ dàng. Nếu bạn không làm được thì chỉ có một lý do duy nhất là bạn thích đọc chứ không hề nghiêm chỉnh về sự thăng tiến của chính mình chút nào. Chúc các bạn một ngày thăng thiến.
“Chị xem kìa nắng lấp lánh trên mặt Hồ Gươm có đẹp không”.
“Chị xem anh kia vác bao tải kìa, các bắp thịt thấy đẹp không?”
“Chị thấy hai con vịt trên mặt hồ kìa, tình tứ không?”
“Wow, xem em bé kia kìa, giống búp bê không?”
Sunday, December 19, 2010
Bàn về Đạo và Đời
Mình nhớ là hồi bé qua cách nói chuyện của người lớn, mình có cảm giác như những người theo đạo Thiên chúa,và người không theo đạo (hay người lương) thuộc về hai thế giới khác nhau (đạo Phật thì phổ biến và ít nhiều đều có trong các gia đình nên mình không so sánh ở đây). Trong con mắt trẻ thơ thì mình chỉ mường tượng rằng người theo Thiên Chúa hay đi lễ nhà thờ, họ thờ phụng chúa Giesu khác với người lương thờ ông bà tổ tiên, họ thường chỉ kết hôn với người cùng đạo, và đâu đó mình nghe được qua bạn bè mình rằng những người bạn có đạo thường là rất tốt và đáng tin cậy. Mình cũng không biết gì hơn thế, cũng không nghe ai thảo luận hay giải thích tại sao lại có người theo đạo và không theo đạo, theo đạo tốt hay không tốt, người có đạo có khác gì với người lương không? Mọi thứ cứ ở đó như nó vốn thế, thậm chí khi nói về tôn giáo thì mình nghe nhiều ý kiến phản đối hơn là các phân tích tích cực. Có lẽ là mọi người có ác cảm trong quá khứ vì một số người đã dùng tôn giáo để phục vụ cho mục đích chính trị hay mưu đồ cá nhân. Nếu bạn là một độc giả thường xuyên của Đọt Chuối Non thì hẳn là bạn sẽ tìm thấy câu trả lời cho các câu hỏi này. Bản thân mình cũng vậy. Nói một cách ngắn gọn, đạo nào cũng có chung một mục đích là hướng con người trở về đúng với bản chất thật nhất: sống có đạo đức, thiện tâm, khiêm tốn. Theo đạo hay không theo đạo cũng chỉ là một cái nhãn (label), chúng không nói lên điều gì nhiều nếu như bản thân chúng ta không thể hiện được điều đó trong đời sống của mình. Đứng ở góc độ cá nhân, mình thấy hiểu về đạo quan trọng vì một số lí do. Thứ nhất là niềm tin. Khi mình còn bé thì gia đình là chỗ dựa tinh thần rất vững chắc. Bố mẹ luôn là động lực để mình cố gắng vươn lên. Nhưng khi tốt nghiệp đại học mình cảm thấy muốn thoát khỏi ảnh hưởng của bố mẹ, muốn tự lập để khẳng định mình. Lúc đó thì các quyết định của mình không còn là để làm cho bố mẹ vui nữa. Ngay cả khi bố mẹ không đồng ý mình vẫn theo đuổi công việc mà mình mong muốn, và lúc đó mình đi tìm một chỗ dựa tinh thần lớn hơn bố mẹ mình. Sau này thì mình nhận ra đó chính là God (Chúa, Phật hay đấng tối cao nào đó không phải là con người). Thứ hai là sức mạnh. Nói một cách đơn giản là khi tin vào một điều lớn lao thì bản thân mình cũng trở nên mạnh mẽ hơn. Mình không sợ chết (vì nếu theo giải thích của Phật thì đời sống của con người trên thế gian rất ngắn ngủi, con người cũng chỉ là hạt cát trong sa mạc thôi). Mình cũng không lo lắng cho tương lai (vì theo giải thích của Phật thì tương lai là cái không ai biết, sống cho ngày hôm nay, ở đây lúc này thôi). Mình cũng không tức giận hay để bụng ai nữa (vì chúa Giesu bảo phải yêu hàng xóm của mình, yêu cả kẻ thù của mình). Những thay đổi đơn giản như vậy thôi nhưng đã khiến mình cách nhìn của mình về cuộc sống thay đổi hoàn toàn. Mọi thứ trở nên tươi đẹp và ý nghĩa hơn mỗi ngày. Ở góc độ quốc gia, mình cũng có chút trải nghiệm chia sẻ với các bạn. Khi sang Mỹ mình thấy có một điều rất khác biệt là thực hành tôn giáo ở đây lại rất mạnh, khác hẳn với Việt Nam. Đạo là văn hóa. Ở những vùng còn giữ được nhiều truyền thống văn hóa như Midwest (trung Mỹ), người dân chăm đi lễ nhà thờ và sống rất tốt, hay giúp đỡ người khác. Có một hôm đọc website giới thiệu của giáo sư, mình còn thấy giáo sư viết rõ gia đình ông ấy hay đi nhà thờ nào. Mình khá ngạc nhiên. Sau khi tìm hiểu thì mình mới biết rằng đó là một dấu hiệu chỉ ra: 1) “Tôi và gia đình tôi theo đạo (tức là tin vào chúa Giesu)”, 2) “Chúng tôi đáng tin cậy”. Dấu hiệu thứ 2 là một cách hiểu ngầm, nhưng lại rất quan trọng trong xã hội Mỹ. Không thể phủ nhận một điều là nhờ có đạo Tin Lành mà xã hội Mỹ là một xã hội có tính tin tưởng giữa các cá nhân cao (high-trust society). Năm 1904, Max Weber, nhà kinh tế chính trị và xã hội người Đức, đã viết một cuốn sách về vai trò quyết định của Thiên Chúa giáo đối với sự phát triển kinh tế thần kì của nước Mỹ. Rõ ràng là sự phát triển của một quốc gia phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, nhưng nếu chúng ta nhìn đạo ở góc độ văn hóa và tính tích cực của đạo trong việc xây dựng niềm tin của con người và sự tin tưởng giữa các cá nhân, thì giải thích của Weber cũng rất có lý: nước Mỹ mạnh nhờ có đạo Tin Lành. Điều này cũng đúng với các quốc gia phát triển khác như các nước châu Âu, Nhật Bản, Hàn Quốc hay cộng đồng người Do Thái. Đặc điểm chung của họ là xã hội có sự tin tưởng cao giữa các cá nhân và niềm tin vào God. Chúng ta vẫn hay đổ lỗi cho hệ thống, cho lãnh đạo, cho cơ chế đã làm trì trệ sự phát triển của đất nước, nhưng nếu nhìn xa hơn thì tất cả những điều đó lại cũng là một sản phẩm của văn hóa và lịch sử. Chúng ta vẫn nói rằng đạo Phật là tôn giáo phổ biến ở Việt Nam, văn hóa Việt Nam là văn hóa Phật giáo. Người Việt ai cũng ít nhất một lần ghé chùa, thắp hương, khấn Phật nhưng những người thực sự hiểu Phật giáo và có ý niệm về Phật trong đời sống của mình thì ít mà những người ghé chùa lễ phật để cầu danh lợi thì ngày càng nhiều. Christmas is not a time nor a season, but a state of mind - Calvin Coolidge Giáng sinh không phải là một thời cũng không phải là một mùa, mà là một cách nhìn. Mong rằng mỗi khi Noel về, chúng ta cũng hòa cùng thế giới để chào đón ngày chúa Giesu ra đời, cùng vui chơi, ca hát, tặng nhau những món quà của tình yêu thương, và không quên dành một phút lắng đọng để nhìn lại mình. Chúc các bạn mùa Giáng Sinh an lành. Hoàng Khánh HòaĐây đang là mùa Giáng Sinh. Ở Việt Nam cách đây mấy năm thì Giáng Sinh chỉ là ngày lễ của người theo đạo Thiên Chúa, còn bây giờ chúng ta có thể thấy là không khí của đêm Noel tràn ngập khắp nơi. Giáng Sinh dường như đã trở thành ngày lễ của tất cả mọi người. Sự phấn khởi, ấm áp, và niềm vui trong không khí của đêm Noel chẳng phân biệt và chẳng loại trừ ai là người theo đạo hay không theo đạo.
Người có học vấn phải có Tổ quốc
Năm tháng rồi cũng qua đi nhưng trong tim tôi vẫn lưu giữ những hình ảnh về một người thầy đặc biệt. Thầy có thể vẽ bản đồ Việt Nam trong chớp mắt, cứ như dáng hình cong cong ấy đã in sâu vào tâm khảm. Thầy dạy chúng tôi phải viết hoa danh từ Tổ quốc, và cũng chính thầy đã nhắc lại với tôi một câu nói nổi tiếng của Luis Paster : “Học vấn không có quê hương nhưng người có học vấn phải có Tổ quốc”. Thầy tôi nhắc lại câu nói ấy với một nỗi niềm đau đáu khôn nguôi, dường như trong câu nói có cả nỗi lòng của người thiết tha yêu Tổ quốc. Và, đúng như thầy giáo nói, nó chứa đựng những triết lí sâu sắc mà đi cả cuộc đời có người chưa thấu hiểu. “Học vấn không có quê hương” ý nói bể học vô bờ, người ta có thể trau dồi kiến thức ở bất cứ nơi đâu. Liên từ “nhưng” như một đòn bẩy ngôn từ, sức nặng câu chữ được dồn vào triết lí nhân sinh sâu sắc: “người có học vấn phải có Tổ quốc”. “Tổ quốc”-hai từ giản dị mà biết mấy thiêng liêng. Nó gợi dòng hoài niệm trong tim người xa xứ và gợi cả niềm tự hào nơi những người ở lại. Tổ quốc là nguồn cội, tổ tiên, là mảnh đất chôn rau cắt rốn, nơi có gia đình, xóm làng, bè bạn, có khoảng trời kỉ niệm ấu thơ. Tổ quốc không chỉ là vùng đất, nó là không gian gắn với những giá trị thiêng liêng của cuộc đời người. “Người có học vấn phải có Tổ quốc” không chỉ nêu lên một chân lí chung: bất cứ ai sinh ra đều có một khoảng trời quê hương, mà còn là lời răn dạy, nhắn nhủ: Những người am hiểu đạo lí thì dù đi đến đâu cũng phải nhớ về Tổ quốc. Đó là tình cảm nhân văn cao đẹp thẳm sâu trong trái tim con người, đặc biệt là những người xa xứ. Hơn thế, nó còn là thước đo nhân tính, đúng như lời thơ Đỗ Trung Quân: Tổ quốc là điểm tựa để người ta bay cao bay xa trên bầu trời tri thức. Đồng thời, mẹ Tổ quốc luôn đón chào những đứa con xa trở về với khát vọng dựng xây. Như vậy, tình yêu Tổ quốc là tình cảm gắn bó hai chiều giữa con người và xứ sở. Câu nói của Luis Paster là hoàn toàn đúng đắn bởi nó dựa trên cơ sở của lòng người mà gửi gắm một bài học về cách sống : sống ở trên đời không ai có thể quên Tổ quốc. Ta đã hiểu ý nghĩa câu nói của nhà bác học người Pháp, nhưng vấn đề là làm sao để bày tỏ tình yêu đất nước ? Có phải yêu đất nước là phải tham gia những dự án vĩ mô, những kế hoạch bạc tỉ để làm thay đổi bộ mặt của quê hương mình ? Lòng yêu nước gắn với những biểu hiện giản dị hơn thế. Tôi có một người anh công tác xa nhà. Trên blog của mình, anh viết : « Lại một Giáng sinh trắng trôi qua. Vào những ngày cuối năm của xứ sở Bắc Âu, sao mình thấy nhớ ngày Tết quê hương với miếng bánh chưng mặn mà tình làng nghĩa xóm, với làn mưa xuân mơn trớn những búp non đầu cành… ». Yêu quê hương là luôn nhớ về quê hương, và những dòng tâm tình ấy chất chứa tình cảm của người con xa Tổ quốc. Yêu quê hương còn là tình yêu và ý thức giữ gìn những nét đẹp cổ truyền của đất nước. Như Vũ Đình Liên từng bâng khuâng tiếc nuối cho “Những người muôn năm cũ/ Hồn ở đâu bây giờ”, như nhân vật bà Hiền – “một người Hà Nội của hôm nay, thuần túy Hà Nội không pha trộn” – trong văn Nguyễn Khải, họ là những người được giáo dục để cảm nhận những vẻ đẹp cổ truyền, những thuần phong mĩ tục của kinh đô ngàn năm. Vì thế, họ trở thành cây cầu nối hai bờ lịch sử: hiện tại và quá khứ, nét hiện đại mới mẻ và những giá trị của ngàn xưa. “Sunflower Mission” – có lẽ trong cộng đồng người Việt ở Hoa Kì, không ai không biết tới tổ chức từ thiện do những người Việt lập ra. Cho đến nay, hơn ba mươi ngôi trường được xây dựng ở đồng bằng sông Cửu Long, gần sáu trăm suất học bổng được trao cho trẻ em nghèo là minh chứng cho tấm lòng của những người xa quê mà luôn nặng lòng với Tổ quốc. Và còn nhiều nhiều nữa những tấm gương hướng về Tổ quốc. Người Việt cùng sinh ra từ mẹ Âu Cơ, cùng sát cánh bên nhau trên mảnh đất ven bờ Thái Bình Dương ngập tràn nắng gió, phải chăng vì thế mà hình bóng quê hương luôn in sâu vào tâm khảm. Dù ở nơi đâu, họ cũng sẵn sàng giúp ích cho đất nước. Nhưng liệu nhà nước đã có những chính sách thích hợp để trọng dụng nhân tài? Tổ quốc ta còn nghèo, nhưng thiết nghĩ chúng ta phải cố gắng mở đường cho người tài về dựng xây đất nước, đừng chỉ nghĩ đến những phí tổn hiện tại mà tự bó hẹp mình. Chảy máu chất xám đang là một vấn nạn của xã hội, nhưng vấn nạn đó hoàn toàn có thể giải quyết vì luôn có những người tài hoa và nặng lòng với Tổ quốc, non sông. Hơn nửa thế kỉ trước, lớp lớp thanh niên Việt Nam đã ra đi để bảo vệ dáng hình xứ sở. Hơn nửa thế kỉ sau, công lao của họ đã nở hoa cho một Việt Nam đẹp giàu. Nhưng đáng tiếc, lớp con cháu của họ lại có người sống trên quê hương mà đánh mất quê hương. Họ đua đòi chạy theo thứ văn hóa du nhập từ Tây phương. Họ xả rác bừa bãi, phá hoại bộ mặt của đất nước. Họ sống ích kỉ cho riêng mình chứ không nghĩ đến lợi ích chung. Đó là những con sâu đục ruỗng vẻ đẹp của thanh niên Việt Nam ngày nay. Và trách nhiệm của chúng ta là phê phán cái xấu, tích cực luyện rèn cho ngày mai lập nghiệp. “Dòng suối đổ vào sông, sông đổ vào dải trường giang Von-ga, con sông Von-ga đi ra bể. Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu mái nhà tranh trở thành lòng yêu Tổ quốc”. Đúng như câu văn của I-li-a Ê-ren-bua, những biểu hiện nhỏ nhất có thể làm nên tình yêu đất nước. Thanh niên Nhật thể hiện tình yêu đó bằng việc sáng chế những vật liệu thân thiện với môi trường, bảo vệ không gian xanh. Thanh niên Phi-lip-pin lập nhóm tình nguyện giúp đỡ nạn nhân của sóng thần. Còn bạn, một thanh niên Việt Nam, bạn làm gì? Hà Minh Ngọc“Học vấn không có quê hương nhưng người có học vấn phải có Tổ quốc” (Luis Paster)
Quê hương mỗi người chỉ một
Như là chỉ một mẹ thôi
Quê hương nếu ai không nhớ
Sẽ không lớn nổi thành người
Thói quen KHÔNG nói xin lỗi của người Việt
Có một việc nên làm rất thường xuyên, nhưng đối với người Việt thì lại cực kỳ khó làm. Đó là xin lỗi. Đa số dân ta có thái độ “ta thà làm quỷ nước Nam còn hơn xin lỗi”. Tại sao? Lúc nhỏ em bé Việt nào cũng bị ăn đòn và phải xin lỗi sau trận đòn, hứa là không tái phạm nữa. Có lẽ vì xin lỗi được xem như là hành động của trẻ con, của tội phạm, và người lớn đứng đắn thì không có tội gì mà phải hạ mình xin xỏ, mất danh dự, cho nên ta thà mổ bụng tự sát theo kiểu harakiri để rửa danh chứ tội thì nhất định không xin? Các bạn đã làm thương mãi hẳn là đã thuộc nằm lòng câu “Khách hàng là thượng đế”. Thế thì bạn cư xử với thượng đế cách nào bạn biết không? Chiều chuộng và lễ độ với thượng đế hết mức. Và 3 từ người ta phải nói với thượng đế thường xuyên và liên tục là: vâng, cảm ơn, và xin lỗi. Khi bạn làm thương mãi và khách hàng của bạn không được vui, bạn luôn luôn xin lỗi, kể cả khi bạn chẳng có lỗi gì cả. Ví dụ: Bà khách đang có chuyện gì đó không vui, đi vào tiệm gọi ly Coca Cola, mọi thực khách khác cũng nghe bà ta gọi Coca. Một lúc sau tiếp viên bưng ra ly Coca, bà ta mắng cho một trận là điếc, bà đã gọi cà phê tại sao đưa Coca. Tiếp viên đã được huấn luyện tử tế sẽ đương nhiên xin lỗi là nghe nhầm và mang ly cà phê ra cho bà. Không phải chỉ là thương mãi mà thôi, trong cuộc sống thường ngày cũng thế, một tiếng xin lỗi làm được rất nhiều điều huyền diệu. Nếu ta trễ hẹn, nếu ta lỡ nói một câu làm ai phiền, nếu ta lỡ nói điều gì về ai đó rồi từ đó các bạn ta đồn thêm tin thất thiệt, nếu ta lỡ quẹt xe ai… xin lỗi một câu là mọi người đều vui vẻ. Đôi khi vì lý do pháp lý,ta không thể nhận lỗi, ví dụ tai nạn xe cộ làm ta nghĩ là lỗi thật ra là của người kia, thì ta vẫn có thể xin lỗi mà không nhận lỗi: “Thưa chị tôi rất tiếc là tai nạn này xảy ra”. Trong thương mãi cũng vậy, một bà khách sai 100% nhưng bà ấy phàn nàn gì đó, ta vẫn có thể xin lỗi kiểu không nhận lỗi gì cả: “Thưa bà, tôi rất tiếc là bà không được vui. Tôi xin giảm 15% cho bữa ăn này của bà, mong là bà được hài lòng.” (Mình thường giải thích với các quý vị thương gia là, giảm 15% hay 50% hay cả 100% để xin lỗi, ngay cả khi mình không có lỗi, là cách quảng cáo rẻ tiền nhất và hiệu quả nhất, thay vì tốn cả núi tiền quảng cáo trên TV mà không ai thèm đá động tới mình). Xin lỗi đôi khi là để nhận lỗi, xin được tha thứ. Nhưng phần nhiều là xin lỗi là một hành động hạ mình xuống để làm cho người kia được vui–một hành động khiêm tốn, chẳng liên hệ gì đến việc mình thực sự có lỗi gì hay không. Người tự tin và khiêm tốn luôn luôn sẵn sàng xin lỗi. Người thiếu tự tin rất sợ xin lỗi. Ngày cả khi bạn không có lỗi về việc người ta tố bạn, và bạn nhất định không nhận lỗi đó được vì lý do pháp lý, bạn vẫn có thể xin lỗi về các việc khác liên hệ đến việc đó. Ví dụ: Bạn quên khoá cửa phòng và có người trộm tiền của công ty trong ngăn tủ của bạn. Bạn đương nhiên là không nhận tội bạn đã lấy tiền, nhưng ít ra là xin lỗi đã bất cẩn không khóa tủ. Xin lỗi là liều thuốc huyền nhiệm chặn đứng mọi tranh chấp, cãi cọ không cần thiết. Vào quán cà phê bạn vừa quay sang bàn bên cạnh liền bị một cậu hất hàm “Nhìn gì? Muốn kiếm chuyện sao đây?” Chỉ cần xin lỗi một câu “Xin lỗi anh, mình làm anh hiểu lầm. Mình không có ý đó” thì có lẽ là chiến tranh chẳng bao giờ xảy ra. Hình như đối với người Việt ta xin lỗi là một hành động nhục nhã hay sao? Các bạn chỉ có người thiếu tự tin, thiếu trưởng thành, thiếu khiêm tốn mới nghĩ thế. Nếu bạn khiêm tốn, tự tin và trưởng thành, có lẽ “xin lỗi” là từ bạn nói nhiều thứ ba trong kho tàng ngôn ngữ, chỉ sau từ “vâng” và từ “cám ơn”.
Chuyển tải nghệ thuật sống
Chúng ta dạy học trò, dạy con cái, dạy em út, dạy người cấp dưới, dạy đệ tử cách sống hàng ngày—khiêm tốn, thành thật, yêu người, can đảm, dịu dàng, trí tuệ… Và chúng ta có đủ những bài giảng mo-ran dài dằng dặc của chính ta, cũng như những bài giảng cổ truyền của các bậc đại sư đã được truyền tay qua nhiều thế hệ, để làm khí cụ trợ giảng. Nhưng tất cả những thứ đó chỉ có thể làm 10% việc dạy. 90% của việc dạy là cách sống của chính ta. Cách sống của ta có “dạy” điều miệng ta “dạy” không? Nếu miệng ta và các bản văn ta trao tay dạy A+, mà cách sống của ta nói A-, thì đương nhiên là các học trò của ta chỉ học A-. Trong giáo dục, chúng ta hay nói “trẻ em học bằng cách bắt chước”. Thực ra thì tất cả mọi người, cả người lớn lẫn trẻ em, học bằng cách bắt chước. Bạn muốn học cách bắt tay và chào hỏi như Mỹ, đương nhiên là chỉ có một cách học là bắt chước Mỹ. Học suy nghĩ như Anh? Đương nhiên là phải bắt chước Anh, chẳng có cách nào khác. Bắt chước là cách học hiển nhiên, ở cả hai tầng ý thức và vô thức của con người. Cho người nhìn nhau để học nhau, cho nên tác phong của thầy là cách dạy mạnh mẽ nhất, 24 giờ một ngày. Các bạn có nghe từ “mass mentality” chưa? Tạm dịch là “tâm lý đám đông” hay “tư duy của đám đông”. Xem thị trường chứng khoán, đô la, vàng, hay nhà đất là thấy ngay. Một vài đại gia nào đó nói chứng khoán sắp xuống giá, bắt đầu bán, là có thể cả thị trường đua nhau bán đùng đùng. Có tin gì đó ở đâu đó, vài đại gia nói chứng khoán sẽ lên, mọi người tranh nhau mua đùng đùng. Đô la, vàng, nhà đất cũng vậy. Một vài người làm gì đó, là mọi người có thể ùa theo đùng đùng mà không cần biết đúng sai. (Nhìn các đại gia đầu tư, đôi khi người ra không khỏi thắc mắc: “Các quý vị này có phải là “nhà đầu tư” với kiến thức cùng mình như từ “nhà đầu tư” ám chỉ, hay chỉ là một bầy cừu rủ nhau chạy vòng vòng loạn xạ đây?”). Ví dụ khác, trong điều kiện không mấy vui vẻ với Trung quốc hiện nay, nếu nhà nước để mọi người thẳng tay hò hét chửi bới Trung quốc, thì e rằng chỉ trong một tháng toàn dân Việt Nam sẽ đòi xung phong mang súng bắc tiến. Bản tính con người là a dua và bắt chước như thế, cho nên người thầy dạy không chỉ bằng lời, mà phần lớn là bằng chính con người của mình, cách đi đứng nằm ngồi, ánh mắt, bàn tay, cách xừ thế của mình hàng ngày với người khác… tất cả con người của thầy sẽ dạy học trò, 24 tiếng một ngày. Kiến thức, tri kiến, trí tuệ thực ra không sống khơi khơi giữa không trung. Một câu “Hãy sống khiêm tốn” chẳng hạn, tự chính nó thực ra chẳng có nghĩa gì với ai cả. Nhiều người chẳng biết “sống khiêm tốn” là sống thế nào, dù là đọc được từng chữ đó. Nhưng khi học trò thấy thầy hàng ngày cư xử với học trò đầy tương kính, lắng nghe học trò với cách lắng nghe người ngang hàng thầy, khi học trò hiểu sai thầy chỉnh với một thái độ khoan dung và tương kính, khi có khách đến thăm thầy có thái độ nhã nhặn và lễ độ đối với khách, khi khách mạt sát thầy nhịn nhục và dịu dàng với khách, khi nói chuyện với người ăn người làm thầy nói chuyện một cách yêu mến và tương kính… tất cả những điều này làm cho lời thầy nói “Hãy sống khiêm tốn” sáng tỏ như một chiếc đèn pha trong tâm trí của học trò. Không phải thắc mắc nhiều “sống khiêm tốn là sống thế nào?” Mỗi người chúng ta là Phật đang thành. Chúa sống trong mỗi người chúng ta. Các câu nói này không chỉ là các từ hoa mỹ, mà là châm ngôn của nghệ thuật sống. Các bạn, làm sao thấy Chúa, thấy Phật được? Cả Phật Thích ca và Chúa Giêsu đã đi hơn mấy ngàn năm rồi. Chẳng có cách thấy Phật thấy Chúa (trừ người nào có may mắn được các ngài hiện ra). Chỉ có một cách để chúng ta thấy được một chút bóng dáng thấp thoáng của Phật và Chúa là nhìn thấy Phật và Chúa trong mỗi chúng ta. Nhìn nhau bằng con mắt trần tục của những con người trần tục với nhiều yếu đuối và sai sót, chúng ta vẫn có thể thấy được các thiện tính và ánh sáng của nhau để có thể nói: “Tôi đã thấy được một chút hình ảnh của Chúa, của Phật, qua các bạn của tôi.” Các bạn, để mình lập lại: “Mỗi chúng ta là Phật đang thành. Mỗi chúng ta có Chúa sống trong ta. Chỉ có một cách để chúng ta thấy được một chút bóng dáng thấp thoáng của Phật và Chúa là nhìn thấy Phật và Chúa trong mỗi chúng ta.” Tất cả các lời dạy của các triết lý, các giáo pháp, các đại sư, thật ra chỉ là những dòng chữ chết, vô hồn. Chúng chỉ sống lại, rực lửa và chiếu sáng khi chúng luân chuyển trong dòng máu của ta, biểu lộ ra ngoài bằng cử chỉ và hành động của ta. Đó chính là dạy, là giáo huấn, là giáo dục, là làm gương, là tỏa sáng. Các bạn, đừng tuyệt vọng vì cuộc đời nhiều rối rắm. Rối rắm làm ta rối trí, mù mờ, tối tăm. Nhưng, ánh sáng mạnh hơn bóng tối và ánh sáng xua được bóng tối. Ánh sáng, vào mức sâu thẳm nhất, là Phật tính trong ta, là Chúa trong ta. Phật trong ta, Chúa trong ta, lập lại, không phải chỉ là các từ hoa mỹ nghe cho kêu, mà là bản tính tĩnh lặng trong sáng tinh tuyền của ta, có thể đi giữa mọi rối rắm u tối, đối phó với mọi tình cảnh một cách bình tâm và sáng suốt, đôi khi đến mức mà người khác phải gọi là “phi thường.” Nếu chúng ta tập trung tâm trí vào nguồn sáng đó, bằng cách sống với Phật trong ta, Chúa trong ta, mọi điều ta dạy sẽ trở thành một nguồn sáng rất dễ thấy, rất dễ hiểu, rất dễ cảm nhận, và rất dễ hấp thụ đối với học trò. Đó là quả tim ta đang chuyển hóa thế giới của ta ở mức mạnh mẽ nhất.
Nền tảng của thuật lãnh đạo
Hôm nay, ngày làm việc đầu tiên trong năm 2011, hãy nói về điều quan trọng nhất cho thuật lãnh đạo—cái nền của thuật lãnh đạo, ở trên đó tất cả các hành vi và kỹ năng lãnh đạo của ta hoạt động.
Nếu các bạn đã từng học các lớp về lãnh đạo và đọc các sách về lãnh đạo, với đủ mọi quy luật về tầm nhìn, tổ chức, xử thế… và các đức tính tốt về công bình, kiên quyết, v.v…, các bạn sẽ nhận ra những thứ này có giúp một chút về việc quản lý của bạn, nhưng bạn vẫn có cảm tưởng chúng không làm bạn trở thành một người lãnh đạo như bạn mơ tưởng và mong muốn. Các thứ này có vẻ như ngoài da và hình như vẫn thiếu cái gì đó để làm lãnh đạo là lãnh đạo thực sự.
Điều thiếu sót đó chính là cái nền của thuật lãnh đạo mà hầu như chẳng sách vở nào nói đến.
Bạn nghĩ cái nền đó là gì?
Những gì làm lãnh đạo là lãnh đạo?
• Khi mọi người quýnh quáng lo sợ, lãnh đạo vẫn bình tâm, không lo sợ.
• Khi mọi người nổi nóng đổ lửa, lãnh đạo vẫn dịu dàng như mặt nước hồ thu.
• Khi bị chỉ trích, mọi người tự ái đùng đùng, nhưng lãnh đạo thì vẫn khiêm tốn dịu dàng.
• Người ta nghĩ về lợi ích của mình, lãnh đạo nghĩ về lợi ích cho người theo mình.
• Người ta thấy mình lớn, lãnh đạo thấy mình nhỏ.
• Người ta đòi người khác phục vụ mình, lãnh đạo phục vụ những người theo mình.
Nói chung, đại đa số mọi người sống theo kiểu phản xạ, tâm hành động và xung động theo phản xạ, nhưng người lãnh đạo thực sự khắc phục mọi phản xạ, kiểm soát được tâm mình, và điều khiển tâm làm việc theo ý mình.
Khắc phục mọi phản xạ, kiểm soát được tâm mình, và điều khiển tâm làm việc theo ý mình, chính là “tĩnh lặng”.
Tĩnh lặng là khi thiên hạ sợ, ta tĩnh; khi thiên hạ nóng, ta tĩnh; khi thiên hạ kiêu, ta tĩnh; khi thiên hạ tham, ta tĩnh; khi thiên hạ tiêu cực, ta tĩnh…
Đó là nền tảng của lãnh đạo. Lãnh đạo là dẫn đường. Nếu bạn không dẫn đường cho chính trái tim của bạn đường, thì làm sao bạn dẫn đường cho người khác được?
Nhưng lãnh đạo chính trái tim mình là việc khó khăn, không ai muốn làm, không ai muốn học, cho nên rất ít, rất ít sách vở dạy lãnh đạo nói đến việc này, và các tác giả của các sách về lãnh đạo chắc cũng không hề biết chuyện này, mà chỉ nói đến các nguyên tắc quản lý và tổ chức bên ngoài, thuộc loại mì ăn liền. Quản lý không phải là lãnh đạo. Người quản gia chẳng phải là lãnh đạo trong nhà, người chủ nhân gia đình mới là người lãnh đạo. Các nguyên tắc quản lý, giúp ta một chút trong việc quản lý, nhưng không thể giúp ta thành lãnh đạo, dù là quyển sách có nói “Đây là sách dạy lãnh đạo”.
Nếu các bạn quan tâm về thuật lãnh đạo thực sự thì hãy tu tập cho tâm tĩnh lặng, kiểm soát được tâm mình hoàn toàn, không để tâm mình chạy lung tung như khỉ.
Kiểm soát và điều khiển được tâm mình hoàn toàn là nền tảng của lãnh đạo. Nếu không làm được điều này, bạn không thể là lãnh đạo thực sự, dù chức danh trong công ty hay trong nhà nước của bạn là gì. Người không dẫn đường được tâm mình thì không dẫn đường cho người khác được. Chân lý giản dị có vậy.
Đừng tốn thời giờ đọc các sách về “lãnh đạo” trước khi bạn bắt đầu tiến trình quản lý tâm bạn thật kỹ luật.
Tĩnh lặng.