Showing posts with label Van Hoa. Show all posts
Showing posts with label Van Hoa. Show all posts

Tuesday, February 8, 2011

Chuyện lì xì ngày tết - Trao con dao sắc cho trẻ

Vuong Tri Nhan
     Nỗi khổ của những ngày Tết là chủ đề mà cánh già ngoài bãi sông Hồng chúng tôi mấy ngày qua hay bàn. Chủ đề sáng nay lái sang câu chuyện về việc người lớn lì xì, hay nói theo lối đồng bằng Bắc bộ, gọi là mừng tuổi lớp trẻ.
     Anh A mào đầu kể, mấy ngày tết đi chúc tết đã mệt nhoài, tối nào về cũng có một việc phải làm là quản tiền mừng tuổi mà đứa con trai anh đã nhận hôm ấy. Rồi ra, đây cũng là việc mà tết xong anh phải lo tổng kết và lên kế hoạch  đối phó với nó khá tỉ mỉ.
     -- Sao lại căng thẳng đến thế ?-- tôi hỏi lại.
     -- Trẻ con giờ khôn lắm, nó biết đấy là dịp trời cho, tiền kia là tiền của nó, mình không thể muối mặt đòi lại nó được. Sẽ được tùy nghi tùy tiện, muốn làm gì thì làm. Được phiêu lưu trong hư hỏng… Thật chẳng khác gì người ta -- không cần biết con mình còn vụng về thế nào -- đưa cho con mình con dao sắc, bố mẹ có gỡ mãi cũng không nổi.
     Chỉ còn có cách an ủi là nghĩ rằng trước đó mình cũng đã tham gia vào việc trao con dao sắc cho con người khác nghịch chơi. Trách ai được nữa.
      Anh B kể về một nỗi khó xử khác:
      -- Có lần đến một nhà quen, đôi bên mừng tuổi con cái. Tôi cứ theo thói quen đưa cái bao sắp sẵn hai mươi ngàn, nghĩ là mừng tuổi trẻ lấy lệ. Nhưng về hỏi con mới biết hôm ấy con tôi được anh bạn lì xì một trăm ngàn. Tự nhiên tôi cảm thấy như mắc một món nợ. Vợ tôi thì bảo thôi rút kinh nghiệm sang năm phải tìm hiểu trước, xem bạn bè mình năm vừa qua làm ăn thế nào sẽ lì xì cho con mình bao nhiêu để mà ra đòn tương tự, chứ không lại mang tiếng là bủn xỉn.
     Anh C tiếp tục trở lại khía cạnh tiền làm hư trẻ:
     -- Chưa nói chuyện tiêu vung cả lên sau, về ngay lúc nhận tiền ở đứa trẻ lập tức hình thành một thái độ. Hễ ai cho nhiều tiền thì đó là người tử tế đàng hoàng, ngược lại thì đó là người kém cỏi nếu không muốn nói là tồi tàn, bất lịch sự, không biết cách cư xử. Đồng tiền mừng tuổi trở thành yếu tố quyết định trong việc đánh giá con người của chúng, đã đáng sợ chưa? Phần lớn trẻ hiện nay cư xử như tôi vừa kể.  Nội cái việc cỏn con này, đã chứng tỏ chúng ta vụng về  thế nào trong việc  đối xử với cái thế hệ tương lai mà lúc nào ta cũng lo lắng.
       
       Lúc nào đó, phải nghiên cứu lai lịch cái chuyện lì xì này, xưa thế nào và nay ra sao.
       Có một điều chắc nhiều phong tục VN bắt nguồn từ Trung quốc.
      Trong cuốn Cội nguồn văn hóa Trung Hoa, tôi đọc thấy người ta viết rằng “ sau bữa cơm đêm giao thừa, người bề trên mừng tuổi cho đám hậu sinh….Cũng có khi vào buổi sáng mồng một Tết, khi trẻ em đến chào hỏi người trên, thì cũng được mừng tuổi tặng tiền”... Có người dùng tiền mừng tuổi đặt trong bao đặt dưới gối con trẻ để xua đuổi tà ma…”.  
     Còn ở VN, ngay trong những câu chuyện kể về Tết ngày xưa, chuyện này cũng chỉ được nhắc qua loa.
     Việt Nam phong tục của  Phan Kế Bính giới hạn mừng tuổi trong phạm vi gia đình.  
      Nếp cũ làng xóm Việt Nam của Toan Ánh cho biết “ con cháu chúc tết các cụ xong, các cụ cũng chúc tết lại  […] Và các cụ cũng mở hàng lại cho con cháu một món tiền gọi là tiền mừng tuổi, người giàu mừng tuổi nhiều, người nghèo cũng mừng tuổi tượng trưng một vài đồng[ …] miễn sao để con cháu gặp được may mắn tốt đẹp “.
    Phong tuc làng xóm Việt Nam của Nhất Thanh—Vũ Văn Khiếu ghi: trong quan hệ với họ hàng bạn hữ, mừng tuổi cũng gọi là mở hàng, nhiều ít tùy cảnh, và ngầm nói rằng việc khách mừng tuổi cho con chủ nhà chỉ là việc tiện thì làm không thì thôi, không ai đánh giá nhau qua việc đó cả. 
    Đối chiếu lại như thế, thì thấy mừng tuổi với con người gọi là thời kinh tế thị trường hôm nay đã biến thành một tệ nạn.
    Sau chiến tranh, nhiều phương diện đời sống ở ta có thiên hướng trở lại với cái thời tiền hiện đại.
     Nhân danh tiếp nối truyền thống, người ta thả mình vào vòng tay của mê tín dị đoan, đằng sau đó không gì khác chính là nỗi lo lắng thường trực cho tương lai và liều lĩnh làm tất cả để mưu sinh.    
       Mối quan hệ giữa người với người không tìm được những chuẩn mực hợp lý.
      Để sang một bên việc mừng tuổi đối tượng làm ăn để ra giá, để mặc cả, để hối lộ, và mừng tuổi người lạ để khoe của ngạo đời, --  hãy nóimối quan hệ hàng ngày giữa những người công nhân viên chức lao động bình thường. Việc mừng tuổi tràn lan vô tội vạ hiện nay chính là một bằng chứng của việc con người không đủ sức kiểm soát nổi các hành động của chính mình. Ta tưởng ta làm việc tử tế với người khác. Hóa ra ta đẩy đối tượng của mình vào một tình thế hết sức khó xử. Ta muốn tỏ ra yêu thương con bạn nhưng làm thế là nối giáo cho giặc, đánh thức cái phần hư hỏng trong đứa trẻ. Làm một việc dễ dẫn đến hiệu quả tai hại – trong nhiều trường hợp phải gọi là một việc xấu -- mà lại cứ đinh ninh là làm việc tốt và vênh vang tự hào vì điều đó.

 

NGỦ BỌN Ở NHÀ CHỨA

Nhớ nhau, nương vào câu ca quan họ
Nguyễn Xuân Diện

Cho đến nay, đã từng có rất nhiều giả thuyết về sự ra đời và nguồn gốc của quan họ nhưng chưa có giả thuyết nào được chấp nhận một cách tuyệt đối. Ngay chữ Quan họ, chúng ta cũng chưa tìm được một văn bản Hán Nôm nào chép hai chữ này. Quan họ có từ bao giờ cũng chưa có câu trả lời xác quyết!  

Không gian văn hóa quan họ trải dài khắp 49 làng quan họ cổ của trấn Kinh Bắc xưa, nay thuộc hai tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang. Đó là vùng đất cổ xưa, với những ngôi chùa hàng ngàn năm tuổi, những hội hè đình đám, những phong tục tốt đẹp, những vị công hầu khanh tướng, những ông nghè ông trạng và những giai nhân tài sắc. Người Kinh Bắc có câu: Em đi khắp bốn phương trời/ Không đâu lịch sự bằng người ở đây. 

Thời gian của Quan họ là suốt bốn mùa Xuân - Hạ - Thu - Đông. Nhưng mùa Xuân mới thực sự là mùa của quan họ. Khi ấy “thong thả nhân gian nghỉ việc đồng”, các làng vào đám, nam thanh nữ tú đua nhau trẩy hội tưng bừng. Người Kinh Bắc hát quan họ trên thuyền, trên đồi, trong chùa, trong đình, và trong các tư gia...

Trai gái các làng quan họ lại thường tụ tập thành từng bọn (từ cổ, chỉ một nhóm người) để cùng nhau hát. Một bọn quan họ thường là những người trong một làng với nhau, với ý là để đối đáp với làng khác. Gặp nhau, người quan họ dùng những lời xưng hô thật nhún nhường, lịch sự. Bên nào cũng vui vì gặp gỡ, cũng mong được học lấy đôi lối đôi câu. Những bọn quan họ gặp nhau, thường là hát với nhau thâu đêm suốt sáng ở nhà chứa (nhà ông trùm của một bọn quan họ), và nghỉ lại ở nhà quan họ bạn của mình. Đó là tục ngủ bọn, có từ thưở xa xưa lắm! 

Về lề lối, theo học giả Toan Ánh thì quan họ có nhiều giọng, nhưng có ba giọng chính để hát đối đáp trong những ngày hội. Đó là Giọng sổng (dùng để dạo giọng lúc bắt đầu hát), thường là những lời ướm hỏi như:Hôm nay tứ hải giao tình/ Tuy rằng bốn bể nhưng sinh một nhà. Tiếp theo là Giọng vặt (những câu hát để đôi bên gắn bó với nhau). Giọng sổng chỉ có một giọng, còn giọng vặt thì là gồm nhiều giọng: giọng buồn, giọng vui, giọng cao, giọng thấp, giọng ngắn, giọng dài. Gặp nhau, người quan họ kể cho nhau rằng đêm đông lạnh giá, nhớ bạn, không dám, một mình đắp cả manh chiếu tấm chăn: Gió lạnh suốt đêm đông trường/ Nửa chăn, nửa chiếu, nửa giường để đó đợi ai… Sau Giọng vặt là Giọng bỉ (Giọng vỉ) để hát lúc chia tay. Giọng bỉ ngân dài, nói lên sự chua xót của phân ly và cả sự luyến tiếc của ngày mau tàn. Vì vậy, nội dung các câu hát giọng bỉ thường là căn dặn, nhắn nhủ nhau nhớ lấy những lời hẹn ước. 

Dẫu rằng dân gian có câu: “Ăn Bắc, mặc Kinh” ý nói người Kinh Bắc sành ăn, người Kinh kỳ (Kẻ Chợ, Hà Nội) thì sành mặc, nhưng người quan họ ăn mặc rất đẹp. Trang phục của người quan họ nền nã, kín đáo, lịch sự, tinh tế. Chi tiết nào trong trang phục liền anh, liền chị quan họ cũng đẹp. Nhưng có hai chi tiết trên trang phục của liền chị quan họ đã trở thành vẻ đẹp được thi ca tán tụng, đó là chiếc khăn mỏ quạ hình bông sen hồng và nếp váy đã lạc vào câu thơ “váy Đình Bảng buông chùng cửa võng” của thi sĩ Hoàng Cầm. 

Về chơi quan họ, chơi lối chơi của người quan họ ta cảm nhận được sự thanh lịch và nồng hậu của người Kinh Bắc. Một mâm cơm quan họ dọn ra, be rượu đã nghiêng bầu rót vào chén ngọc. Mâm cao cỗ đầy thịnh soạn, nhưng người quan họ lại vẫn khép nép thưa rằng: “Năm thì năm mới, tháng thì tháng xuân, các liền anh liền chị chẳng quản đường xá xa xôi đến thăm đất nước nhà chúng em, thăm thầy u chúng em. Nay đã thức thời, chúng em có sửa soạn mâm cơm nhạt, đầu mâm đĩa muối cuối mâm đĩa dưa, chúng em cũng mong các liền anh liền chị nâng chén dựng đũa để cho chúng em được thù tiếp đấy ạ!”. Và rồi người quan họ ca lên rằng: Tay tiên nâng chén rượu đào/ Sánh ra thì tiếc uống vào thời say. Mùa xuân, qua chơi quan họ, tình như thế, cảnh như thế, ai mà không say cho được!

Về với Kinh Bắc, cho dù bạn không phải là người con của quê hương ấy thì khi cất bước chân đi bạn cũng sẽ thấy đây là một quê hương của bạn rồi. Vì rằng Kinh Bắc có tất cả vẻ đẹp cổ truyền và vẹn nguyên của vùng quê văn hiến mà hồn của muôn xưa vẫn còn hiện diện đâu đây, trong giọng nói tiếng cười, trong nếp sinh hoạt của người dân hôm nay.

Khi câu hát “Người ơi người ở đừng về” vang lên lời giã bạn với lời hát rằng “đương vui như thế này, sao người bỏ ra về, có nhớ đến chúng em chăng?” thì bạn có cầm lòng được chăng?

Rượu vang là thứ rượu tuyệt vời nhất

Nguyễn Lân Dũng

 Rượu vang có mặt trên thế giới cách đây ít ra là 5-6 nghìn năm. Người ta tìm thấy cặn rượu vang trong các vò đất nung bị vùi sâu tại những nơi có niên đại cách đây trên 5000 măm. Các bức tranh miêu tả cảnh dân chúng ép nho để lên men còn lưu lại bên trong Kim Tự Tháp có cách đây 6000 năm của Vua Phtah-Hotep. Trong kinh Cựu Ước có ghi lại việc sau cơn Đại Hồng Thủy ông Nô-ê (Noah) đã lấy nho mọc hoang dại để ép lấy nước và giữ cho lên men thành rượu vang. Gọi là rượu vang vì tiếng Pháp là Vin (Vigne là cây nho), tiếng Anh là Wine (Vine là cây nho), tiếng Nga là Vino. Rượu vang là phải làm từ quả nho, tuy nhiên về sau ở nước ta các lợi rượu hoa quả lên men nhưng không cất vẫn được gọi là rượu vang- vang mơ, vang sim, vang mận, vang điều, vang táo, vang hoa quả (hỗn hợp). Hiện nay trên thế giới có khoảng 75 866 km2 trồng nho và khoảng 71% sản lượng nho được dùng để sản xuất rượu vang. Diện tích trồng nho nhiều nhất theo thứ tự là Tây Ban Nha, Pháp, Italia, Thổ Nhĩ Kỳ, Hoa Kỳ, Iran, Rumani, BBồ Đào Nha, Argentina, Trung Quốc, Australia.

 Muốn có rượu vang nho phải trồng nho. Tất cả các loài nho đều thuộc chi Vitis, thuộc họ Vitaceae và thuộc bộVitales. Có tới 39 loài nho khác nhau được trồng ở Châu Âu , phổ biến nhất là loài Vitis vinifera. Loài này gồm nhiều biến chủng mang các tên thương phẩm nổi tiếng, đó là:

 -Nho Cabernet sauvignon . Đây là loại nho đỏ, dễ trồng , mọc khỏe, chịu đựng tốt mưa nắng,quả có vỏ dầy và là thứ nho nổi tiếng để làm rượu vang Bordeaux (Pháp). Loài nho này cũng được trồng và làm ra các loại rượu vang nổi tiếng ở California, Tuscany, Chilê, Australia...

 - Nho Merlot (tuy cùng loài nhưng ít tannin hơn và mau trưởng thành hơn). Cũng dùng để chế rượu cao cấp ở vùng Bordeaux và ở một số vùng bên Hoa Kỳ.

 - Nho Pinot Noir (cùng loài nhưng quả có vỏ mỏng,đòi hỏi chăm sóc kỹ lưỡng). Loại nho này là loại thượng hạng ở vùng Bourgogne (Pháp), đã di thực sang các vùng California, Oregon (Hoa Kỳ).

-Nho Chardonnay (khác với các chủng nho đỏ nói trên, đây là nho trắng, dễ trồng, dễ thích ứng với nhiều vùng địa lý khác nhau, cho quả sai). Loại nho này thường được dùng để chế ra các loại rượu nổi tiếng như rượu Bourgogne, Chablis (Pháp), Chardonnay (Hoa Kỳ, Chilê, Australia)

-Nho Sauvignon blanc ( cũng là nho trắng, hơi chua, đễ trồng nên phổ biến rộng rãi). Loại nho này xuất phát từ vùng thung lũng sông Loire (Pháp) sau đó di thực sang Châu Mỹ, Australia New Zealand.

-Nho Riesling (cũng là nho trắng, trồng được xứ lạnh). Loại nho này phát triển nhiều ở vùng lưu vực sông Rhine , Mosel-Saar-Ruwer, Wurttemberrg (Đức), Alsace (Pháp).

Ngoài loài Vitis vinifera với các chủng nổi tiếng nói trên còn có nhiều loài nho khác cũng được dùng để sản xuất rượu vang. Đó là các loài V.acerifolia, V.aestivalis, V.amurensis, V. arizonica (chống chịu sự chênh lệch nhiệt độ ngày-đêm ), V. bourquina, V.californica (chống chịu sâu bệnh và thời tiết lạnh), V.champinii, V. cinerea (dùng để lai ghép nhằm đề kháng với sâu bệnh), , V.doaniana, V. girdiana, V. labrusca, V. labruscana, V. lincecumii (dùng để lai ghép nhằm đề kháng với sâu bệnh), V. monticula, V. mustangensis, V.novae-angliae, V. palmata, V.riparia, V. rotundiflora, V. rupestris (dùng để lai ghép nhằm đề kháng với sâu bệnh),, V.shuttleworthii, V. tiliifolia, V. vulpina(chống chịu sương muối)...

Để sản xuất rượu nho đỏ phải chuyển nho không bị giập nát về nhà máy, loại bỏ cuống, cành, sau đó nghiền bằng máy. Đem tất cả khối lượng nghiền được cho vào các thùng gỗ lớn để cholên men tự nhiên nhờ các nấm men đã có sẵn trên quả nho. Nhiệt độ phải duy trì để không quá 320C. CXần khuấy đảo để không cho vỏ nho kết thành tảng nổi lên trên. Để hạn chế sự xâm nhập và phá hại của vi khuẩn (làm chua rượu) người ta dùng SO2 bổ sung với liều lượng thích hợp vào thùnh lên men. Tùy loại lên men mà có khi tăng cường độ chua bằng cách bổ sung acid tartric. Cũng có khi cần bổ sung đường để nâng cao độ rượu. Nhiều trường hợp sau khi lên men chính còn cần lên men phụ bổ sung để chuyển acid malic (chua gắt) thành acid lactic (chua dịu). Sau đó là giai đoạn gạn dần để loại bỏ cặn lắng đọng dưới đáy thùng. Phần phía dưới không thể cho tự chảy ra mà cần ép cho chảy ra. Phần này có khi bị loại bỏ hay được pha với phần trong (lấy ra trước) theo những tỷ lệ thích hợp. Việc pha chế là một công đoạn bí quyết nhà nghề trước khi đưa vào giai đoạn bảo tồn để lên hương. Giai đoạn này thường đựng rượu vang vào các thùng gỗ sồi, ít nhất cũng lưu trữ trong 4 tháng, trung bình là 1-2 năm, nếu lâu hơn thì chất lượng rượu vang càng ngon hơn. Sau cùng phải lọc cho thật trong trước khi đóng chai. Chai cũng phải được bảo quản từ 5-6 tháng đến vài ba năm trước khi đưa ra bán. Chất lượng nho chiếm 95% chất lượng rượu vang. Phần kỹ thuật và kinh nghiệm chỉ chiếm khoảng 5% mà thôi.

 

 

Để sản xuất rượu vang trắng cũng qua các công đoạn như sản xuất rượu vang đỏ nhưng phải chú ý thêm các khâu sau đây. Khi nghiền vỡ quả nho phải ép nhẹ nhàng để không làm cho sắc tố trên vỏ lây lan vào ; tránh ngâm với vỏ nho hay chỉ để tiếp xúc trong vài giờ ; lên men ở nhiệt độ khoảng 180C mà thôi ; lên men trong các nồi lớn bằng thép không rỉ có thể điều chỉnh nhiệt độ ; thời gian tồn trữ thường để ngắn hơn ; sau khi lọc cặn còn cần hạn nhiệt độ xuống tới âm 40C (-40C) để tách acid tartric (lắng xuống đáy).

 

 

Rượu Sâm banh (Champagne) cũng là một loại rượu vang nhưng có chọn lọc loại nho , rượu gốc có độ rượu là 11%, sau lên men lần hai là 13%. Lên men lần hai ngay trong các chai chịu áp suất có cho thêm đường, lên men ở nhiệt độ thấp (110C) trong 6-8 tuần, bảo quản trong 1-5 năm . Chai rượu để chúc đầu xuống và được xoay dần bằng tay cho cặn nấm men lắng hết xuống đầu chai, sau đó tống cặn ra bằng cách đưa cổ chai vào nhiệt độ rất thấp (-220C) để cặn đông lại và tháo nút chjo bật ra thật nhanh, bổ sung thêm một ít nước rượu hay nước đường rồi đóng nút và buộc chặt bằng dây kẽm. Ga càng nhiều chứng tỏ quá trình lên men càng lâu,chất lượng rượu càng tốt. Không có nước nào bổ sung cồn và nén khí CO2 công nghiệp vào rượu Champagne như một số cơ sở sản xuất ở nước ta. Khi mổ nút nổ rất to, có khi nổ 2-3 lần nhưng chất lượng không thjể chấp nhận được.

Rượu vang và rượu Champagne không trải qua quá trình chưng cất. Còn rượu Cognac là loại rượu chưng cất từ rượu vang và vì vậy có độ rượu rất cao. các cấp bậc của rượu Cognac được ghi trên nhãn là V.S. (Very Special), V.S.O.P . (Very Superior Old Pale), X.O. (Extra Old), và cao cấp nhất là Super- Catégorie.

Cho đến cuối năm 2005 các nhà khoa học đã xác nhận uống rượu vang đỏ với liều lượng vừa phải có tác dụng rất tốt đối với sưc khỏe. Cụ thể là làm giảm các nguy cơ cao huyết áp, nhồi máu cơ tim, tai biến mạch máu não, tuổi thọ cao hơn, giảm nguy cơ bị bệnh tiệu đường, chậm tiến triển các bệnh lão hóa (Alzheimer,loãng xương...)giảm nguy cơ ung thư tiền liệt tuyên, ung thư đại tràng, ung thư vú, ung thư phổi...

Uống vừa phải là 2 ly cho nam va 1 ly cho nữ mỗi ngày. Như vậy là không quá 30g ethanol (rượu ethylic) với nam và 20g ethanol với nữ mỗi ngày. Nên nhớ là lượng ethanol trong rượu vang là 8-18%, thường là 11-12%.

Vang Đà Lạt đã đạt đến mức độ được Chính phủ chọn để chiêu đãi các đoàn khách cao cấp của 21 nền kinh tế tham gia Hội nghi cấp cao APEC tại Hà Nội, trong đó có cả các nguyên thủ của nhiều nước lớn trên thế giới. Tuy nhiên chúng ta còn rất ít kinh nghiệm trong lĩnh vực này. Nghiên cứu để chọn lựa được các dòng nho chất lượng cao, sử dụng các thuốc sinh học trong phòng trừ sâu bệnh cho nho, tuyển chọn các chủng nấm men tạo được nồng độ rượu cao khi lên men, tìm các thùng gỗ thay gỗ sồi, tổ chức các vùng nguyên liệu đẻ có thể có các nhà máy sản xuất rượu vang hiện đại...Đó là những nhiệm vụ nặng nề và đầy triển vọng của các nhà nghiên cứu và sản xuất rượu vang ở Việt Nam. Sẽ đến lúc rượu vang Việt Nam đủ sức thay thế các loại rượu vang nhập khẩu và còn có thể xuất khẩu ra nước ngoài nếu tạo ra được một hương vị ngon lành và khác biệt với các loại rượu vang kinh điển trên thế giới. Tại sao lại không dám tin vào chuyện đó ?

Xuân này biết “đáo nơi neo”?

Bài và ảnh: Xuân Bình

Nứng với dâm thần?

Khi xưa, hết tết, ra Giêng, nứng xuân tình chả đâu hơn hội lễ ở những làng có biểu tượng, tục thờ dâm thần hay trò lễ tôn vinh văn hóa phồn thực như La Khê, Hoài Đức, Hà Nội; Đồng Kỵ, Bắc Ninh; Văn Trưng, Vĩnh Tường, Vĩnh Phúc; đền Bà Banh, Hải Dương; Tứ Xã, Lâm Thao, Phú Thọ.. . Quê ấy, từ khai hội đến rã đám, rộn ràng trống hội. Từ sáng mờ đất đến khi nhọ mặt, bên đu xuân, trai thì khom gối hạc, gái uốn lưng ong. Đêm mật, già trẻ hỉ hả vui trò nõ nường, gái đua nhau chèn, trai gắng sức nắn bóp, sờ soạng. Âm thanh động tình, kẻ rên, đứa hét, người hú nghe vui đếch tả được… Trong giá rét, khi đã ngấm men say, chỉ mới thoáng nghĩ hay chợt nhớ đến hội làng thì đã nao nức, dậm dật khắp ngõ ngách cơ thể. Tình ấy mới động lòng trời. Xuân ấy mới thực là xuân.

Hãy tạm quên đi những điêu khắc gỗ ẩn trên vì kèo, câu đầu, kẻ bẩy với những câu chuyện trai gái tắm hồ sen, chải tóc, làm duyên, tình tự ở Tây Đằng, Quang Húc, Tam Nông hay cảnh sờ tí con gái ở đình Đông Viên… Đẹp đến mấy thì cũng tạm để dành cho các nhà phê bình… ngắm nhìn và luận về văn hóa phồn thực Việt.

Bỏ qua chốn vắng lặng như đền Bà Banh ở Hà Nội, Hải Dương.

Khi xưa:

“Bơi Đăm, rước Giá, hội Thầy

Vui thì vui vậy không tày rã La”

Vậy mà bây giờ vào lúc rã đám hội làng La Khê, Hoài Đức chỉ còn thấy “đại cảnh” gái trai xô đẩy, chen lấn, sờ soạng, nắn bóp nhau….đã chuyển cảnh.

Và xuân này nếu có đến xem bắt chạch trong chum ở làng Văn Trưng, Vĩnh Tường thì cũng chẳng còn mấy “tình cảnh” trai làng một tay túm vú bạn gái, một tay khua khoắng bắt chạch…

Tiếc và oan nhất là pháo làng Đồng Kỵ, Bắc Ninh, thấm thoắt đã 16 niên không được một lần tan xác. Cũng như hội và lễ rước, pháo thì rõ to và cực dài. Nhưng chỉ còn đuồn đuỗn ra đó với vỏ giấy màu mè. Không bùng phát, chẳng thăng thần, khó thoát kiếp, Nõ Nường biết làm cách gì để chạm tới miền cực… khoái lạc, để trấn yểm dữ xấu, khát khao sinh sôi, ước vọng no đủ, cầu nguyện phúc lành?

 

Ký ức quê mùa, nhận thức thuần phác, tín ngưỡng xưa cũ đã và đang mốc mác hay tẹt dí dưới đống băng, đĩa, web sex, những câu chuyện tình rẻ tiền trên báo chí, truyền hình hay lối sống “hiện sinh” của một bộ phận không nhỏ của thanh thiếu niên…?

Mật ngữ Đụ Đị?

Hãy thử một lần về với Trò Trám ở đền cổ Tứ Xã, Lâm Thao. Làng Gáp đã đổi tên, thay dạng. Không còn những hình ảnh như thời nữ sỹ Hồ Xuân Hương về làm lẽ Tổng Cóc. Mờ nhòe dấu tích thủy tạ, ao sen nơi mà bà chúa thơ Nôm vịnh thơ giễu đời cùng Tổng Kình, Tú điếc, nho Trâm. Quê đang nguy cơ thành phố. Rừng trám hư thực, bí ẩn quanh đền cổ đã bị chặt bỏ. Những khoảng đất trống sau đền đã được xây dựng mới một ban thờ Mẫu quá trang nghiêm. Thần, Phật vô ưu nào muốn chiếm dụng khoảng đất hẹp mà con dân, người đời dung chứa những khát vọng trần tục. Lòng dân chẳng được tỏ bày. Trong ý niệm của một vài nhóm người có vai vế, thế lực cũng không còn chỗ dành cho gái trai hân hoan dự đại tiệc “tháo khoán” sau lễ mật. Trong lễ hội mới phục dựng, vì sao nhiều du khách vẫn hiếu kỳ đến độ nín thở chờ nghe lão làng hô lớn “linh tinh tình phộc”? Và đám báo chí thì chen vai, thích cánh, đánh chửi nhau để… cố ghi lại hình, chụp lại ảnh lúc Nõ và Nường… phộc… phộc…. phộc?!?!?!

Từ chỗ bị khinh bỉ, cấm đoán, ngăn cản, dục tình đã bị điều khiến theo một hướng cực đoan khác. Tín ngưỡng phồn thực vẫn bị đạo đức giả, giáo điều chỉ lối. Sinh sôi có còn là một Đức lớn của trời đất…?

Nhưng may mắn làm sao cái tinh quý của hội làng, thần thái văn hóa cổ truyền hay dấu tích tín ngưỡng phồn thực vẫn còn phảng phất, day dứt, quyến luyến đâu đó trong những dịp lễ hội đầu xuân mới được phục dựng. Ấy là những ẩn ngữ trong văn tế cùng các trường đoạn diễn xướng tứ dân chi nghiệp. Trước lễ mật, những nghệ sỹ ưu tú của làng sẽ có màn trình diễn về thợ cày cấy, kẻ đi câu, người bán mua Xuân, nhóm sỹ tử rao bán chữ nghĩa…

Chị nông dân thì véo von:

Người ta đi cấy lấy công

Tôi đây đi cấy lấy ông chủ nhà

Đi cấy thì gốc chổng lên

Ngọn thời cắm xuống mới nên mùa màng.

Lời ca của chàng thợ mộc có câu:

Người ta xẻ gỗ trên ngàn

Anh đây cưa lấy một nàng đương tơ

Với phường buôn bán hay kẻ sỹ thì câu chữ, lời ca có vẻ trau chuốt, ý tứ:

Còn xuân thì mua xuân đi

Nay lần mai lữa còn gì là xuân

 Hay:

Học trò đi học sách kinh

Tay cầm quản bút “quệt” tình nghiên đây

 Nhưng với mấy anh, chị hề hát pha trò thì câu chữ ngổn ngang sự tinh nghịch, đĩ bợm ra phết:

- Giờ đây anh mới hỏi nàng

Cái gì lủng lẳng một gang trong quần

- Chàng hỏi thì thiếp thưa rằng

Cái đeo lủng lẳng là giằng cối xay

- Ước gì em hóa thành trâu

Anh hóa thành chạc xỏ nhau cả ngày…

Ơ hay, sao lại: chày- cối, trâu- chạc, bút- nghiên…? Lạ thật, cớ gì mà cứ: mua, bán, cưa, quệt, xỏ, chổng lên… cắm xuống?

Trước lễ mật, trong một tiết điệu lạ lùng của đêm xuân, những ẩn ngữ cứ lặp đi, khi bổng lúc trầm, các động tác, vũ điệu cứ nhắc lại, tái hiện như một thức ma thuật? Vật dụng tầm thường đang hóa kiếp thành vật linh? Nõ nường đang được tôn vinh thành “thượng đẳng thần”, “bảo vật hộ dân”? Những cái “dung tục” đang được thiêng hóa? Chỉ có thể tìm câu trả lời trong niềm tin kỳ lạ của từng người dân Tứ Xã. Hàng trăm năm nay họ tin rằng khi diễn trò Đụ Đị vào thời khắc thiêng liêng của trời đất thì sẽ cảm tất thông, cầu tất ứng.

Nếu ai chửa tin thì mấy hôm nữa nhớ về Tứ Xã để kiểm chứng lời người xưa:

Bà ẵm cháu, mẹ bồng con

Không xem Trò Trám thì buồn cả năm.

- Giờ đây anh mới hỏi nàng
Cái gì lủng lẳng một gang trong quần
- Chàng hỏi thì thiếp thưa rằng
Cái đeo lủng lẳng là giằng cối xay
Bán "Xuân" - Mua "Xuân"

Ông già đánh lờ. Nhời hát của ông:

- Ai ơi chớ bảo tôi già

tôi còn gánh nổi những ba cái lờ

gánh lờ chẳng phải lờ không

có dăm con bấc nằm trong cái lờ

- Ai ơi chớ bảo tôi già

tôi còn tráng kiện bằng ba đương thì!

*Bài và ảnh do Xuân Bình gửi riêng Xuân Diện. Bản đăng trên Thể thao & Văn hóa Cuối tuần thì bị xẻo đi nhiều đoạn lắm!

Dân Nghệ! GÀN! P/v Pham Xuan Nguyen

 

Tôi nghĩ ông là người Nghệ không ai cãi được, ít nhất về lí lịch, cha Nghệ An, mẹ Hà Tĩnh, lại sinh ra và lớn lên đến độ tuổi biết nói biết nghĩ, ở chính trên đất Nghệ. Bây giờ, đã ở Hà Nội mấy chục năm nhưng ông vẫn nói giọng Nghệ đặc sệt. Tôi trọng ông lắm về điều này. 

Có chi mô ông. Hình hài của mình do cha mẹ cho, cho luôn cả giọng nói. Giọng Nghệ của tui từ khi biết cất tiếng nói đến giờ, và đến trọn cuộc đời, thì vẫn là rứa, không cách chi thay được. Cũng nhiều người bảo tui là không chịu đổi giọng, đi đây đi đó nhiều rồi, ở thủ đô bao năm rồi, lại làm rể Hà Nội nữa, mà giọng thì vẫn Nghệ ơi là Nghệ, lại hay nói nhanh nữa, khó nghe quá, mệt tai người ta quá. Tui bảo người ta thì giọng tui nó thế, không đổi được, mà có đổi được cũng không đổi. Thì đấy, tui ra nước ngoài hội họp, tôi đi dạy, đi nói chuyện nhiều nơi trong nước, tôi dẫn nhiều cuộc giới thiệu ra mắt sách ở Hà Nội, giọng Nghệ thành như một "đặc hiệu", cử tọa nghe ông Nguyên nói được thì chịu nghe, giọng Nghệ có cản trở chi mô, có khi lại còn là một "hấp dẫn". Tui nói vậy là vì có những lứa học sinh giỏi văn ở mấy tỉnh Bắc Bộ sau này gặp lại bảo chúng em nhớ nhất thầy là giọng Nghệ đọc thơ. Vui quá! Nên xin phép ông trong cuộc phỏng vấn này cho tui được dùng đại từ nhân xưng ngôi một bằng tiếng Nghệ là "tui" nhé.

 Có một "hằng số" nhân cách Nghệ không, thưa ông? Nếu có, thì nó có thể được diễn đạt như thế nào? Cái khác thiên hạ là chỗ nào?

 Cái này khó hè. Tui nghĩ có lẽ là chữ GÀN, với cả hai mặt tích cực và tiêu cực của nó. Gàn là khác nguời, trái người. Gàn là cứng cỏi, thẳng thắn, kiên định, cấp tiến. Nhưng Gàn cũng là cố chấp, bảo thủ, ương bướng. Tựu trung, Gàn là đứng thẳng làm mình, hay dở đều quyết liệt tận cùng, không chịu nửa vời. Hằng số GÀN của nhân cách Nghệ ấy có thể thấy rõ nhất ở Nguyễn Công Trứ. "Được mất dương dương người tái thượng / Khen chê phơi phới ngọn đông phong" là ông. Mà "đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng" cũng là ông. Thiếu một mặt nào cũng là khuyết mất chân dung kẻ sĩ nơi Nguyễn Công Trứ. Bài thơ làm cây thông reo của ông nhiều người đã biết, đã thuộc. Tui muốn đọc cùng ông một bài thơ khác của ông.

 Trời đất cho ta một cái tài

Giắt lưng dành để tháng ngày chơi

Dở duyên với rượu khôn từ chén

Trót nợ cùng thơ phải chuốt lời

Cờ sẵn bàn son xe ngựa đó

Đàn còn phiếm trúc tính tình đây

Ai say, ai tỉnh, ai thua được

Ta mặc ta mà ai mặc ai

 Ông thấy ghê không, hai câu cuối bài thơ, rõ là một người lớn tài nên lớn tiếng. Hãy chú ý câu thơ thứ hai "giắt lưng dành để tháng ngày chơi". Làm việc đã phải cần tài năng, nhưng chơi cho ra chơi, chơi cho có lịch có lề, thì cũng phải có tài mới chơi được. Tài năng cho phép ta làm được những việc lớn và do đó cũng cho phép ta biết sống một cuộc sống vui chơi có văn hóa, có hiệu quả, có bản lĩnh. Ai đã từng đọc về cuộc đời và sự nghiệp cụ Thượng Trứ hẳn đều thấy cụ nói được và làm được, cụ đã sống được một cuộc sống gần theo ý mình, mặc cho vòng kiềm tỏa nghiệt ngã của một xã hội không dung túng cá tính, cá nhân, cho dù đã có phần phải nới lỏng do những biến thiên của lịch sử. Cái khác biệt của dân Nghệ đúng Nghệ là ở đó! GÀN!

 Tự ông biết, tự ông đánh giá, rằng thì ông còn mấy mươi phần trăm chất Nghệ?

 Tui nghĩ tui còn nhiều chất Nghệ lắm. Từ chất Nghệ có sẵn trong người như một cái "gene". Đến chất Nghệ ở nơi tui làm việc là Viện Văn Học mà có thời gian khá lâu dân Nghệ chiếm số đông, đến nỗi có người gọi là "Viện Văn Nghệ". Tui lại còn được tiếng khen/chê là kiểu cách nghệ sĩ nữa. Rứa là trong tui chất Nghệ phải hơn năm mươi phần trăm chứ không ít. May là tui không để phần tiêu cực của ông đồ Nghệ gàn cản trở trong công việc, giao lưu, chơi bời, nên tự nhận thì tui thấy tui là dân Nghệ mà chơi được và được chơi. Nhà thơ Hoàng Nhuận Cầm có tặng tui một bài thơ thế này: Kiếp sau vứt bút phê bình / Làm tên thi sĩ thất tình mà chơi / Trả trang trắng giấy cho người / Biết đâu Từ Thức vẫn ngồi đợi anh.

 Nói chuyện quê lâu quá, tôi hỏi thật ông nhá, dân Nghệ mà làm chủ tịch Hội Nhà văn Hà nội ông có cảm giác bị ngợp không? Tôi hỏi vậy vì từ xa, nghe qua cánh truyền thông, kể cả truyền thông vỉa hè, thì hội này là danh giá nhất trong số các hội của những người làm văn hiện nay.

 Tui nỏ thấy ngợp chi cả, ông ạ. Tui chỉ thấy tự hào và trách nhiệm trước sự tin tưởng của các hội viên, sự kỳ vọng của mọi người cho một hội văn học đất Thăng Long - Hà Nội thực sự sang gia và sáng giá. Khóa trước chủ tịch Hội Nhà văn Hà Nội là nhà văn Hồ Anh Thái cũng là một người Nghệ, nhà văn Nguyễn Thị Thu Huệ và tui làm phó, chúng tôi cùng ban chấp hành và anh chị em hội viên đã phấn đấu nâng tầm Hội lên một bước, được văn giới và độc giả chú ý, quan tâm. Khóa này tui làm chủ tịch, đại hội đã quyết tâm rất cao xây dựng Hội phát triển hơn nữa, là hội địa phương nhưng tầm thủ đô, có tính phong trào nhưng phải vươn tới đỉnh cao, chúng tôi quyết củng cố và phát huy hơn nữa uy tín và danh tiếng của HNVHN. Việc tui được hội viên tín nhiệm cao và được BCH bầu làm chủ tịch HNVHN càng chứng tỏ thủ đô là nơi "thu hợp trí muôn phương", là nơi tụ hội và kết tinh của nhiều người thuộc nhiều vùng miền cả nước. Tui biết mình phải làm gì để xứng đáng với cương vị của mình.

 Chuyện muôn thuở, rằng văn chương bao giờ chẳng hướng đến con người, đến cái hay, cái đẹp, cái tử tế. Thế nhưng, thời buổi bây giờ cũng có nhiều cách hiểu khác nhau về các khái niệm lắm. Không biết những mục tiêu lớn của Hội Nhà Văn Hà nội vừa xác định ở Đại hội vừa rồi là gì?

 Các hội đoàn lập ra là để tập hợp con người chung một ngành nghề, chung một tâm huyết, tạo điều kiện cho nhau làm tốt nhất, hay nhất công việc chuyên môn của mình. HNVHN nhất quán với phương châm và mục tiêu của mình là thúc đẩy các hội viên sáng tác những tác phẩm đạt tầm thủ đô, tầm cả nước, những tác phẩm sâu sắc về nội dung và độc đáo về nghệ thuật. Nói chung chung vậy, nhưng đi vào cụ thể thì Hội phải khuyến khích những tìm tòi sáng tạo của hội viên, nhất là những người viết trẻ, phải biết chọn lọc và trao giải thưởng cho những tác phẩm có tính đột phá, mới mẻ, phải thu hút được những người viết có tài, có cá tính đa dạng vào hội. Chúng tôi quan niệm, văn chương là phải hay, là phải văn chương. Thời gian qua, giải thưởng hàng năm của HNVHN đã bước đầu thực hiện được điều này. Sắp tới chúng tôi vẫn kiên trì như vậy.

Năm vừa rồi, 2010, được cho là sôi động nhất, nhìn từ nhiều phía, từ chính trị đến kinh tế, văn hóa đến xã hội... Đời sống văn hóa, văn nghệ cũng có nhiều chuyển động theo cùng các chuyển động của đời sống chính trị, kinh tế, xã hội...Từ Hà Nội, với tầm nhìn của một chủ tịch Hội Nhà Văn Hà Nội, và của một nhà phê bình văn học, ông có nhận xét gì về đời sống văn hóa nói chung và văn học của cả nước nói riêng? 

Đời sống văn hóa nói chung, văn học nói riêng, ở nước ta mười năm đầu thế kỷ XXI vẫn đang trong quá trình xáo trộn, biến động, phân dòng và hợp lưu, để tạo nên một hình thái mới, một hình thù khác, một bản sắc lạ. Tóm lại, nó đang trong quá trình chuyển đổi. Mà như thế thì vật vã lắm, khó khăn lắm, phức tạp lắm, lẫn lộn nhiều thứ lắm, khiến cho nhìn bi quan thì thấy lo sợ, hoảng hốt, nhưng nhìn lạc quan thì có thể bình tĩnh chờ đợi. Hệ giá trị bị chao đảo mạnh. Hệ chuẩn mực đánh giá thay đổi mạnh. Có sự phân hóa của người viết, người đọc, của văn chương đặc tuyển, văn chương đại chúng. Có sự trỗi dậy của văn chương mạng, internet, sự thu hẹp của văn chương sách giấy. Tất cả đang được sắp xếp lại để định hình. Cố nhiên, vẫn có cái lõi là tiếng Việt, ta làm văn thơ bằng tiếng Việt, nhưng là tiếng Việt của thời nay mang chở tư duy của người Việt thời nay, thời hội nhập và phát triển, cho nên thành quả sáng tạo của tiếng Việt trong thơ văn sẽ có những sắc thái và ý nghĩa khác, có khi là rất khác, so với những thời trước. Chúng ta hay nói mọi giá trị đều phải chờ sự thử thách của thời gian và công chúng, vậy thì cứ để những sáng tác phẩm mọi thể loại, mọi khuynh hướng, được ra đời, được tồn tại, và được phán xét, thẩm định theo thời gian và người đọc. Nói quá trình là nói đến độ dài thời gian, không thể nóng vội ở đây được.

Theo ông, về văn học, có sự kiện nào và vấn đề nào là nổi trội nhất? 

Năm 2010, đầu năm có hội nghị quảng bá văn học Việt Nam ra nước ngoài do Hội Nhà Văn Việt Nam tổ chức. Đây là một sự đánh động cần thiết, nhưng các biện pháp để thực hiện thì vẫn chưa có cụ thể, hệ thống. Cuối năm có kết quả cuộc thi tiểu thuyết cũng của HNVVN được đánh giá là không có đột phá về thi pháp. Trong khi đó tận đến những ngày hết năm 2010 có một tác phẩm ra mắt khiến ai đã đọc đều sửng sốt, thán phục. Đó là tiểu thuyết Những ngã tư và những cột đèn của Trần Dần (1926 - 1997). Bản thảo cuốn sách được viết năm 1966, sách in ra lần đầu sau gần nửa thế kỷ, nhưng đọc vào thấy bút pháp rất mới, hiện đại. So với nó, nhiều tiểu thuyết viết hôm nay quá lạc hậu, quá cũ. Tui cũng xin nói luôn về giải thưởng văn học 2011 của HNVVN là bình thường. Nhưng việc trao bằng khen cho ba tác phẩm thì nghe "kỳ kỳ", vì bằng khen là trao cho người chứ ai lại trao cho sách. Người có thành tích thì trao huân chương huy chương, bằng khen giấy khen, còn sách hay thì trao giải, chưa hay đến mức được giải thì thôi. Quả HNVVN luôn có những "sáng tạo" bất ngờ, không ai lường được, trong hoạt động của mình.

Cái nổi trội đó nói lên điều gì, thông điệp của nó với cuộc sống xã hội là gì?

Cái mới nổi lên từ cuốn tiểu thuyết của Trần Dần cho thấy cuộc sống xã hội luôn có những đột biến, những bất ngờ, và khi một hiện tượng, một nhân vật xuất hiện ngoài tầm đón đợi quen thuộc thì xã hội phải biết thích ứng với cái mới lạ đó. Tôi nhớ khi Xuân Diệu mới bước ra thi đàn Thơ Mới hồi những năm 1930, Thế Lữ đã trân trọng loan báo và nhắc nhở: "Và từ đây chúng ta đã có Xuân Diệu. Loài người hãy hiểu cho con người ấy!".

Khi quan sát đời sống văn hóa, sự vận động của văn hóa, ông thường chú ý nhất những điều gì?

Điều tôi chú ý nhất khi quan sát đời sống văn hóa, sự vận động văn hóa, chính là cái văn hóa của nó.

Tại sao vậy?

Tại vì đó chính là đặc trưng nhất của đời sống ấy, sự vận động ấy, và cũng tại vì chính cái đó là cái hay bị phá hỏng nhất ở đời sống ấy, sự vận động ấy. Tôi sợ nhất cái "văn hóa" phi văn hóa, phản văn hóa.

Trong đời sống văn hóa của ta bây giờ, theo ông thì chỗ nào, lĩnh vực nào, vấn đề nào là những điểm yếu nhất mà có thể dễ bị các phản văn hóa, hoặc văn hóa ngoại lai thâm nhập và có thể gây nên tình trạng biến dạng, méo móp nhất?

Đó chính là lĩnh vực văn hóa.

Tại sao vậy, thưa ông?

Tại vì nhiều người làm văn hóa mà không hiểu biết văn hóa. Tại vì nhiều người quản lý văn hóa cứ hay nhân danh văn hóa. Tại vì nhiều người thường hay lợi dụng văn hóa, lạm phát văn hóa cho những sự vụ ngoài văn hóa. Tại vì văn hóa hay bị làm vật hy sinh cho kinh tế, chính trị. Tôi thích câu này của K. Marx: "Người đi giáo dục cũng cần phải được giáo dục". Áp dụng nó cho lĩnh vực nào cũng đúng, riêng đối với lĩnh vực văn hóa nó có nghĩa là người làm văn hóa phải có văn hóa.

Vậy ông có cái nghĩ, cái nhìn riêng của mình về bảo tồn và phát huy giá trị truyền thống, các bản sắc của văn hóa dân tộc?

Với truyền thống để giữ bản sắc thì nên tôn trọng nguyên trạng. Với cái mới, để tạo bản sắc thì nên mạnh dạn. Đừng lẫn lộn hai phía, hai dạng khác nhau trong bảo tồn và phát triển. Đối với các di sản vật thể thì phải bảo tồn hình thể tối đa. Đối với các di sản phi vật thể, nhất là các lễ hội, thì phải phục dựng nguyên gốc tối đa, tránh nhất là "sân khấu hóa" chúng, biến chúng thành trò diễn để xem. Lễ hội là của người dân diễn xướng và tham dự chứ không phải để họ ra ngoài không gian lễ và hội, biến họ thành khán giả xem diễn hội trên sân khấu. Tóm lại, theo tôi, hãy để các giá trị văn hóa truyền thống, các giá trị văn hóa hiện đại, sống đúng đời sống thực của nó. Can thiệp thô bạo là phá hoại và phá hủy chúng.

Câu hỏi cuối của tôi là, điểm xuất phát cho hành trình này, nếu tính tại thời điểm này, chúng ta nên bắt đầu từ đâu, từ vấn đề hay lĩnh vực gì?

Trong hai mươi lăm đổi mới đất nước, chúng ta đã có bước phát triển dài về kinh tế, nhưng hình như có nơi, có lúc lại đang thụt lùi về văn hóa. Hay nói cách khác, phát triển và văn hóa chưa đi đôi với nhau. Hiện nay ta lại đang bàn nhiểu về sự phát triển bền vững, mà muốn thế thì không thể xem nhẹ phát triển văn hóa và văn hóa của phát triển. Tôi cho ở thời điểm này, nếu lấy xuất phát điểm cho hành trình đi tới, ta phải bắt đầu từ văn hóa. Văn hóa rộng là cho mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, để không còn những hành xử thô bạo đến mất nhân tính của con người với con người, của con người với thiên nhiên, của con người với văn hóa vật chất và tinh thần, của con người với chính mình. Văn hóa hẹp là cho ngành văn hóa. Trước hết và trên hết những người quản lý và thực hành công việc văn hóa phải biết rõ: văn hóa là gì và văn hóa làm gì.

Cái tréo ngoe, bất cập của ta là chỗ đó. Ai cũng nói rất hay rằng  văn hoá là động lực, là mục tiêu nhưng lại cư xử với nó cứ như là cái phòng chờ, phòng khách vậy. Đẹp hơn, sang hơn nhưng không chất chứa nhiều các giá trị. Cái chất nghiệp dư nó cứ lồ lộ ra ở bất cứ lĩnh vực nào của đời sống văn hoá. Cái chưa đượccủa văn hoá nước mình có lẽ một phần là do đó mà ra. Cảm ơn ông về cuộc trao đổi hôm nay .

Phan Thắng(thực hiện)

(Văn Hóa Nghệ An số tết Tân Mão, 2011)

 

Văn hóa "L*N"

Thưa các bạn độc giả, "l*n" là một khái niệm không còn xa lạ gì đối với những người dân Việt Nam nói chung. Nó ban đầu chỉ là một từ để chỉ cơ quan sinh dục của phụ nữ, nhưng qua lớp trầm tích thời gian, con dân Việt đã nâng nó lên thành một khái niệm mang tính nhân văn, triết lý và mỹ thuật.

Ngày nay chúng ta có thể gặp từ "l*n" ở bất cứ nơi đâu trong cuộc sống hàng ngày. Từ ông xe ôm đến bà đồng nát, từ thằng bé đánh giày đến các đứa bé sơn móng tay, từ ông bán bánh mì đến các bà bán thịt, từ thằng nghiện đến các chị cave, từ học sinh đến sinh viên, từ người ít học đến người nhiều học... Tất cả đều có thể, trong một phút giây nào đó, phát ngôn ra: "l*n!" Nó đã quá gắn bó và quá thân quen với người Việt mình như vậy, tại sao chúng ta lại không thể nhìn nhận lại nó một cách trìu mến hơn, nghiêm túc hơn thay vì cứ coi nó là một cái gì xấu xa tục tĩu như nhiều người vẫn hằng quan niệm? Vì lý do giải oan cho [từ ] "l*n", hôm nay chúng ta lại phải có một cuộc gặp gỡ với vị tiến sỹ tình dục học khả kính Thiên Nguyên. (các bạn chú ý trong bài này chúng ta chỉ đề cập đến khái niệm "l*n" - văn hóa và ngôn ngữ, chứ không nói đến khía cạnh "l*n" - sinh học, nhân tướng học.)

TTM: Thưa tiến sỹ, ông có thể cho tôi và những độc giả của báo cải bẹ ngày nay được biết những hiểu biết/quan niệm/cách nhìn nhận của ông về "l*n" được không ạ. Cụ thể, ông có thể nói ngắn gọn định nghĩa về "l*n" theo cách hiểu của ông?

Ph.D Thiên Nguyên: [Hừm, ừm… ừm] Tôi thấy cái vấn đề mà anh nói đến nó thú vị đấy chứ. Quả thực "l*n" là một khái niệm mà chúng ta phải tiếp xúc hàng ngày mà chưa ai dám tiếp cận nó một cách nghiêm túc và khoa học theo khía cạnh văn hóa. Theo wikipedia thì "l*n" là một "danh từ của týp ít người bình dân hôm nay còn sử dụng, có văn hóa thấp, nên từ ngữ này không được thanh cao cho lắm. Ý để chỉ cái "cửa mình", cái bộ phận sinh dục của người phụ nữ. Trong sinh hoạt đời thường thì từ này được sử dụng trong tình huống kể chuyện tục, kể chuyện tiếu lâm, hoặc để người ta văng tục, chửi thề… theo kiểu thiếu văn hóa. Riêng trường hợp khác, trong câu vè bình dân, câu đố dân gian xa xưa thì danh "cái l*n" hay "l*n" thì từ này không có dụng ý xấu, hay tục tĩu mà người xưa muốn ám chỉ, nói bóng đến hình tượng khác…."

Đấy, ngay cả định nghĩa l*n trên wiki còn sơ sài, cảm tính và thiếu chuyên nghiệp.Chứng tỏ cho đến nay mọi người vẫn còn né tránh từ"l*n", coi nó là xấu xa, dơ bẩn, và không phải thứ ngôn ngữ của người có học. Theo tôi, ngắn gọn này nhá: "l*n" là một phạm trù văn hóa có tính phổ quát trong cộng đồng người Việt, nó bao hàm nghĩa đen là cơ quan sinh dục nữ và nhiều ý nghĩa phái sinh do đời sống dân gian vun đắp và xây dựng qua một quá trình dài lịch sử tạo thành...

TTM: Theo ông thì, Từ "l*n" thường xuất hiện khi nào? Nói cách khác, những tình huống nào khiến người Việt sử dụng từ "l*n"? Có nên khuyến khích sử dụng từ này không? Và sử dụng theo cách nào và với mức độ nào là hợp lý?

Ph.D Thiên Nguyên: Theo tôi từ "l*n" có thể xuất hiện ở mọi lúc mọi nơi. Nhưng thường thì người ta hay dùng khi cảm thấy ức chế, bức xúc một điều gì đó, hoặc căm tức một ai đó và cảm thấy cần thiết phải giải phóng. Ví dụ: "nóng vãi l*n!" (nóng nực không chịu được); "chán vãi l*n!" (quá chán); "thời tiết như l*n!" (thời tiết xấu quá); "Nhìn cái l*n à?" (mày nhìn gì tao thế?); "Lải nhải cái l*n!" (đừng nói nữa tao nhức đầu lắm); "Thằng mặt l*n" (tao ghét mày rồi đấy!)... đơn giản hơn: "l*n!" (chán không còn từ gì để nói).

Cũng có khi người ta dùng từ "l*n" để biểu đạt sự nghi vấn. "Cái l*n gì thế?" (cái gì thế); "Nó nói cái l*n gì thế nhỉ?" (bạn ấy nói gì tớ nghe không rõ); "Thế là thế l*n nào?" (thế này là thế nào); "Thằn l*n nào kia?" (thằng nào kia?). Đa phần trong trường hợp này từ "l*n" chỉ mang tính chất bổ ngữ bổ sung sắc thái, có thể loại bỏ từ này mà không làm mất đi ý nghĩa của câu.

Cũng có lúc người ta sử dụng từ "l*n" để thể hiện sự phấn khích: "Sướng vãi cả l*n" (quá sướng); "đẹp vãi l*n" (đẹp quá); hoặc đơn giản hơn: "vãi l*n!" (hay quá/tuyệt quá/kinh ngạc quá/wonderful…)

Nói là khuyến khích thì không nên khuyến khích, vì ít nhiều cách dùng này cũng hơi suồng sã và thô tục. Song bảo rằng nên ngăn cấm việc sử dụng từ này là không nên và duy ý chí: có mà cấm được cái l*n(!). Vì từ ngàn xưa đến nay nó đã là một công cụ của giới bình dân nhằm giải tỏa những ức chế của cuộc sống. Có chăng, chúng ta cần cân nhắc những tình huống nào thì nên sử dụng, những tình huống nào hạn chế, và những tình huống nào là không nên. Khi ngồi một mình chán đời mà phọt ra câu đấy có khi lại hay, khiến tinh thần sảng khoái. Khi vui vẻ cùng bạn bè, nói ra từ"l*n" khiến các khoảng cách xích lại gần hơn, vui hơn (chỉ dành cho bạn thân, đồng trang lứa). Dùng để xúc phạm hay mạ lị một ai đó thì không nên, hoặc chỉ hạn chế thôi. Còn trong các buổi tiệc, hội nghị, ma chay, cưới xin… mang tính nghiêm túc thì cấm tiệt, chớ có dùng. Đại khái thế…

TTM: Theo ông thì từ"l*n" là một từ độc quyền của giới bình dân, ít học? Vậy thì giới "cao nhân", có học người ta có dùng không? Nếu không thì người ta dùng từ gì để thay thế?

Ph.D Thiên Nguyên: Không, theo tôi đã là một phạm trù văn hóa mang tính phổ quát thì không có gì là độc quyền cả. Làm gì có nhà văn hóa nào dám phát biểu rằng "ta đây chưa hề nói từ "l*n" bao giờ"? Nếu không muốn bị ăn gạch vào mặt? Từ xa xưa người Việt dùng từ "l*n" bắt đầu từ nhu cầu muốn chửi bới, xúc phạm một ai đó cho bõ tức, bõ ghét. "l*n", cũng như"cặc", thường là ngôn ngữ của người bề trên với người bề dưới, ít nhất là cùng lứa với nhau. Theo G.S Nguyễn Hưng Quốc thì nó ban đầu là độc quyền của những người bề trên, giai cấp thống trị chứ không phải là giai cấp bình dân: "Trên đê cụ lớn văng con cặc / Dưới đất thầy cai thượng cẳng tay" (Nguyễn Thiện Kế). Văng "l*n", "cặc" được coi là những "taboo" - điều cấm kỵ - Nó chỉ dùng cho giới bề trên đối với bề dưới (đố thằng dân ngu cu đen nào dám văng "l*n" với quan thầy đấy?). Ngày nay thì ngược lại, chính giới bình dân mới là tầng lớp sử dụng từ này nhiều hơn. Quả là một cuộc cách mạng trong việc dành quyền sử dụng từ ngữ.

Tuy nhiên, không phải giới tri thức, Hi-Class không sử dụng từ "l*n". Bọn họ vẫn dùng đấy, song kín kẽ hơn, khéo léo hơn, uyển chuyển hơn, tế nhị hơn mà thôi. Tôi và mấy anh bạn Tiến sỹ trong lúc trà dư tửu hậu hoặc ngồi thịt chó với nhau vẫn văng "l*n" như thường, có sao đâu. Đó là trong ngôn ngữ nói, còn ngôn ngữ viết tất nhiên là người ta sẽ e dè hơn. Vì thực ra xã hội vẫn chưa chấp nhận phạm trù hơi mang tính thô tục này. Một số người cố tránh né nó [có vẻ] chê bai nó, khinh ghét nó, thô bỉ hóa nó rồi thay thế bằng các từ ngữ Hán Việt một cách khiên cưỡng như "Âm đạo" hay khoa học hơn: "cơ quan sinh dục" rồi nói tránh: "chỗ ấy"… Đã đành là tùy từng văn cảnh cụ thể, nhưng đôi khi người đọc đang cảm thấy bứt rứt, cần "nó" xuất hiện thì người viết lại không dám cho "nó" xuất hiện, tạo nên cảm giác hụt hẫng, mất sướng. Song gần đây tôi thấy một số các bạn trẻ cũng đã mạnh dạn hơn trong ngôn ngữ viết, đã dám văng "l*n" trong bài viết của mình. Tôi hoan nghênh. Anh có công nhận không? Chẳng lẽ khi mô tả ngôn ngữ của một cậu 9x, chúng ta lại viết: "Vãi cả… âm đạo" à? Hay "vãi cả… Chỗ ấy"? nghe nó có ngu không? Vậy đấy, theo tôi, hãy để "l*n" được là "l*n", không cần thay thế nó, và chưa bao giờ cần thay thế nó.

TTM: Ông có thể cho biết tại sao dân gian ta lại hay dùng các từ ngữ chỉ cơ quan sinh dục để phản kháng, để giải tỏa, để xúc phạm một ai đó?Mà không phải một lựa chọn nào khác?

Ph.D Thiên Nguyên: Cậu phóng viên thông minh đẹp trai hỏi một câu hơi bị được đấy.Cái này theo tôi bắt nguồn từ tín ngưỡng. Anh biết tín ngưỡng phồn thực của người Việt cổ chứ? Tín ngưỡng này thờ dương vật và âm đạo, 2 vật thiêng liêng mà tạo hóa ban cho con người để duy trì nòi giống. Theo một số nghiên cứu thì bánh chưng và bánh dày đâu phải tượng trưng cho trời và đất, mà nó tượng trưng cho cơ quan sinh dục nam và nữ. Không chỉ riêng người Việt, ngay cả người Chăm người ta cũng có 2 vị thần chỉ cơ quan sinh dục [tên gì tôi quên bố nó mất]. Như vậy để thấy rằng người Việt ta đã sớm hình thành khái niệm về các cơ quan sinh dục. Chả đâu như người Việt, có hàng tá từ để chỉ cơ quan sinh dục nam và nữ: Chim, cặc, dái, buồi, cu, thằng nhỏ, của quý, củ từ..; l*n, bướm, hĩm, bím, bẽm, đếch (đách), cô nhỏ… Chứng tỏ đây là một cơ quan mà người Việt rất coi trọng, rất tôn thờ, và rất yêu quý! Nhưng sau này tại sao mà người ta lại dùng với mục đích xúc phạm, miệt thị thì có lẽ đã có một cuộc chuyển pha trong tư tưởng người Việt [có thể do sự sụp đổ của tín ngưỡng phồn thực chăng?]. Qua đó người ta lại coi cơ quan sinh dục, hay hoạt động tính dục là cái gì đó xấu xa, đê hèn, bần tiện và ô uế. Có một điều nhận thấy rằng hồi xưa thì giới nào khác sử dụng từ chỉ cơ quan sinh dục của giới ấy. Nam chửi "cặc", nữ chửi "l*n". Nhưng ngày nay có xu thế tất cả cùng dùng "l*n". Đấng mày râu có khi dùng"l*n" còn nhiều hơn chị em phụ nữ. Có thể hiểu điều này là do người ta coi "l*n" ô uế, xấu xa hơn "cặc", nên dùng để chửi bới sẽ có tác dụng mạnh mẽ hơn. Theo tôi cách nghĩ này bắt nguồn từ tư tưởng trọng nam khinh nữ ngày xưa.

TTM: Theo ông thì "l*n" ngoài ý nghĩa sinh học nó còn là một phạm trù văn hóa gồm nhiều tầng lớp ý nghĩa phái sinh. Ở trên chúng ta đã đề cập đến khía cạnh "l*n" - ngôn ngữ dùng để phản kháng, thể hiện thái độ thách thức, khiêu khích, xúc phạm… Vậy còn những khía cạnh khác, như trong văn học, ca dao, dân ca… thì sao?Ông có thể cho biết rõ hơn về khía cạnh này?

Ph.D Thiên Nguyên: "L*n" đi vào văn học dân gian nhiều chứ. Tôi lấy một số ví dụ nhé:

Về ca dao:

- Văn chương chữ nghĩa bề bề
Thần L*n ám ảnh mà mê mẩn đời.

Đấy, chữ nghĩa bề bề còn bị ám ảnh bởi "l*n" chứ đừng nói đến bọn dân đen ít học.

- L*n này l*n chẳng sợ ai
Sợ thằng say rượu đ. dai đau l*n

-(….)

- L*n bà bà tưởng l*n ai
Bà cho ông lý mượn hai tháng liền

-Trên trời có ông sao rua
L*n em tua tủa có thua chi nào

-Cơm ăn mỗi bữa mỗi niêu
Tội gì bắt ốc cho rêu bám L*n

Về thành ngữ, tục ngữ:

- Lo co đầu gối, lo rối lông l*n: lo lắng một vấn đề gì đó

- Cơm hàng, cháo chợ, l*n vợ, nước sông: Phong lưu khoáng đạt.

- L*n Cổ Am, Cam đồng vụ, vú Đồ Sơn: Làng Cổ Am ngày xưa lắm người đỗ đạt nên người ta ví ở đó có những cái l*n tốt đẻ ra người tài.

- Đẻ con khôn mát l*n rười rượi, Đẻ con dại thảm hại cái l*n: Đẻ con khôn sướng hơn con dại

- Sồn sồn như l*n phải lá han: Sốt sắng quá đáng một việc gì đó

- L*n lá mít, đít l*ng bàn: tướng phụ nữ ham muốn tính dục cao.

- Dán bùa l*n mèo: Làm việc cẩu thả, được chăng hay chớ

- Sờ l*n béo, đéo l*n gầy: kinh nghiệm dân gian

- Trai thấy l*n lạ như quạ thấy gà con: đặc tính chung của đàn ông

- Nhiều phân tốt lúa, Nhiều lụa tốt l*n: gái ăn mặc đẹp dễ hấp dẫn cánh mày râu

- Cha chết không lo, lo trâu méo l*n: Kinh nghiệm dân gian.

Câu đố:

Bốn cô trong tỉnh mới ra
Cái l*n trắng hếu như hoa ngó cần
Sư ông tẩn ngẩn tần ngần
Cái buồi cửng tếu như cần câu rô. (đố biết có phải bộ ấm chén không?)

Đi nhai đứng ngậm ngồi cười nhảy qua mương thì ngáp. (Cái l*n gì thế?)

Bút tre:

Thu vân giới thiệu thu bồn
Thu bồn sướng quá vỗ l*n Thu vân
Thu bồn ngồi cạnh thu Vân
Thu Vân tinh nghịch cấu chân thu Bồn
Thu Vân ngồi cạnh Thu Bồn
Thu Bồn tinh nghịch cấu l*n Thu Vân

Sầm Sơn sóng vỗ dập dồn
Ba cô áo trắng ngửa l*n lên bơi

Chợ Đồng Xuân có tiếng đồn
Có chị bán trứng vịt l*n rất to….

Ngôn ngữ thời @:

- Vãi cả l*n: thán phục một điều gì đó

- Sồn sồn như chó cắn l*n: xem lại mục "sồn sồn như l*n phải lá han".

- Ngu vãi l*n: rất rất ngu

- Hãm vãi l*n: hãm tài, bế tắc, tiêu cực.

- Ăn cái l*n:không được đâu, không ăn thua đâu.

- Hà Thiên Lộn: l*n thiên hạ, ý nói đa dâm.

- Cười như l*n cười với cứt: cười rũ rượi

Một số nhà văn (chủ yếu văn mạng), nhà báo, blogger ngày nay cũng có xu hướng dùng trực diện từ "l*n" thay vì viết tắt là "L." hay "ồn" hay những gì đại loại. Anh có đọc các truyện tân liêu trai của quái nhân Bàn tải Cân bao giờ chưa? Cái gã chủ tịch HĐQT công ty cổ phần Tinh Vân ấy? Trong truyện của hắn, phàm đã một cái tên mà dính đến Vần "ồn" thì y như rằng có "vấn đề": Tồn Như Liên(l*n như tiên), Tồn Toàn Lương (l*n toàn tương). Đấy, như thế mà có ai bảo văn của hắn tục đâu, mà người ta, ngay cả giới viết văn chuyên nghiệp, cũng phải nể phục và kính sợ các thiên tuyệt bút của gã.

Tôi chỉ tóm lược sơ sơ vậy thôi. Nhưng chừng đó cũng đủ chứng minh rằng: "l*n" là một nét văn hóa đặc thù của dân Việt, nó đã và đang dần được chấp nhận và coi như là một thuần phong mỹ tục không thể xóa bỏ.

TTM: Với một vai trò to lớn như vậy, ông có cho rằng chúng ta nên phát triển và bảo tồn văn hóa "l*n"?

Ph.D Thiên Nguyên: Đúng thế, chúng ta rất cần bảo tồn và phát triển nó, đưa nó vào quỹ đạo mà vốn nó phải thuộc về. Tôi nói phát triển ở đây không có nghĩa là "nhà nhà sử dụng ngôn ngữ "l*n", người người sử dụng ngôn ngữ "l*n"". Mà chúng ta cần phải mô phạm hóa, văn hóa hóa phạm trù "l*n". Làm sao để ai ai cũng hiểu hết được các khía cạnh của nó, ai cũng biết cách sử dụng nó một cách văn minh, khiến nó không bị bứng ra khỏi xã hội, và cũng không thô tục hóa xã hội. Tôi coi việc sử dụng các ngôn ngữ thô tục nói chung như là việc thuần phục một con ngựa nòi. Khó đấy, nhưng thuần phục được rồi, điều khiển được nó rồi ta sẽ thấy nó cũng thú vị đấy chứ, cũng hay ho lắm chứ. Tất lẽ dĩ ngẫu đây là công việc của các nhà văn hóa, các nhà giáo dục. Còn tôi chỉ là nhà tình dục, tôi cứ quăng "l*n" ra đấy cho các ông ấy [nhà văn hóa, nhà giáo dục] muốn sắp xếp vào đâu thì xếp (cười).

Thiên Nguyên