Showing posts with label Art of Life. Show all posts
Showing posts with label Art of Life. Show all posts

Tuesday, February 8, 2011

Tu Vi 2011


Chuyện lì xì ngày tết - Trao con dao sắc cho trẻ

Vuong Tri Nhan
     Nỗi khổ của những ngày Tết là chủ đề mà cánh già ngoài bãi sông Hồng chúng tôi mấy ngày qua hay bàn. Chủ đề sáng nay lái sang câu chuyện về việc người lớn lì xì, hay nói theo lối đồng bằng Bắc bộ, gọi là mừng tuổi lớp trẻ.
     Anh A mào đầu kể, mấy ngày tết đi chúc tết đã mệt nhoài, tối nào về cũng có một việc phải làm là quản tiền mừng tuổi mà đứa con trai anh đã nhận hôm ấy. Rồi ra, đây cũng là việc mà tết xong anh phải lo tổng kết và lên kế hoạch  đối phó với nó khá tỉ mỉ.
     -- Sao lại căng thẳng đến thế ?-- tôi hỏi lại.
     -- Trẻ con giờ khôn lắm, nó biết đấy là dịp trời cho, tiền kia là tiền của nó, mình không thể muối mặt đòi lại nó được. Sẽ được tùy nghi tùy tiện, muốn làm gì thì làm. Được phiêu lưu trong hư hỏng… Thật chẳng khác gì người ta -- không cần biết con mình còn vụng về thế nào -- đưa cho con mình con dao sắc, bố mẹ có gỡ mãi cũng không nổi.
     Chỉ còn có cách an ủi là nghĩ rằng trước đó mình cũng đã tham gia vào việc trao con dao sắc cho con người khác nghịch chơi. Trách ai được nữa.
      Anh B kể về một nỗi khó xử khác:
      -- Có lần đến một nhà quen, đôi bên mừng tuổi con cái. Tôi cứ theo thói quen đưa cái bao sắp sẵn hai mươi ngàn, nghĩ là mừng tuổi trẻ lấy lệ. Nhưng về hỏi con mới biết hôm ấy con tôi được anh bạn lì xì một trăm ngàn. Tự nhiên tôi cảm thấy như mắc một món nợ. Vợ tôi thì bảo thôi rút kinh nghiệm sang năm phải tìm hiểu trước, xem bạn bè mình năm vừa qua làm ăn thế nào sẽ lì xì cho con mình bao nhiêu để mà ra đòn tương tự, chứ không lại mang tiếng là bủn xỉn.
     Anh C tiếp tục trở lại khía cạnh tiền làm hư trẻ:
     -- Chưa nói chuyện tiêu vung cả lên sau, về ngay lúc nhận tiền ở đứa trẻ lập tức hình thành một thái độ. Hễ ai cho nhiều tiền thì đó là người tử tế đàng hoàng, ngược lại thì đó là người kém cỏi nếu không muốn nói là tồi tàn, bất lịch sự, không biết cách cư xử. Đồng tiền mừng tuổi trở thành yếu tố quyết định trong việc đánh giá con người của chúng, đã đáng sợ chưa? Phần lớn trẻ hiện nay cư xử như tôi vừa kể.  Nội cái việc cỏn con này, đã chứng tỏ chúng ta vụng về  thế nào trong việc  đối xử với cái thế hệ tương lai mà lúc nào ta cũng lo lắng.
       
       Lúc nào đó, phải nghiên cứu lai lịch cái chuyện lì xì này, xưa thế nào và nay ra sao.
       Có một điều chắc nhiều phong tục VN bắt nguồn từ Trung quốc.
      Trong cuốn Cội nguồn văn hóa Trung Hoa, tôi đọc thấy người ta viết rằng “ sau bữa cơm đêm giao thừa, người bề trên mừng tuổi cho đám hậu sinh….Cũng có khi vào buổi sáng mồng một Tết, khi trẻ em đến chào hỏi người trên, thì cũng được mừng tuổi tặng tiền”... Có người dùng tiền mừng tuổi đặt trong bao đặt dưới gối con trẻ để xua đuổi tà ma…”.  
     Còn ở VN, ngay trong những câu chuyện kể về Tết ngày xưa, chuyện này cũng chỉ được nhắc qua loa.
     Việt Nam phong tục của  Phan Kế Bính giới hạn mừng tuổi trong phạm vi gia đình.  
      Nếp cũ làng xóm Việt Nam của Toan Ánh cho biết “ con cháu chúc tết các cụ xong, các cụ cũng chúc tết lại  […] Và các cụ cũng mở hàng lại cho con cháu một món tiền gọi là tiền mừng tuổi, người giàu mừng tuổi nhiều, người nghèo cũng mừng tuổi tượng trưng một vài đồng[ …] miễn sao để con cháu gặp được may mắn tốt đẹp “.
    Phong tuc làng xóm Việt Nam của Nhất Thanh—Vũ Văn Khiếu ghi: trong quan hệ với họ hàng bạn hữ, mừng tuổi cũng gọi là mở hàng, nhiều ít tùy cảnh, và ngầm nói rằng việc khách mừng tuổi cho con chủ nhà chỉ là việc tiện thì làm không thì thôi, không ai đánh giá nhau qua việc đó cả. 
    Đối chiếu lại như thế, thì thấy mừng tuổi với con người gọi là thời kinh tế thị trường hôm nay đã biến thành một tệ nạn.
    Sau chiến tranh, nhiều phương diện đời sống ở ta có thiên hướng trở lại với cái thời tiền hiện đại.
     Nhân danh tiếp nối truyền thống, người ta thả mình vào vòng tay của mê tín dị đoan, đằng sau đó không gì khác chính là nỗi lo lắng thường trực cho tương lai và liều lĩnh làm tất cả để mưu sinh.    
       Mối quan hệ giữa người với người không tìm được những chuẩn mực hợp lý.
      Để sang một bên việc mừng tuổi đối tượng làm ăn để ra giá, để mặc cả, để hối lộ, và mừng tuổi người lạ để khoe của ngạo đời, --  hãy nóimối quan hệ hàng ngày giữa những người công nhân viên chức lao động bình thường. Việc mừng tuổi tràn lan vô tội vạ hiện nay chính là một bằng chứng của việc con người không đủ sức kiểm soát nổi các hành động của chính mình. Ta tưởng ta làm việc tử tế với người khác. Hóa ra ta đẩy đối tượng của mình vào một tình thế hết sức khó xử. Ta muốn tỏ ra yêu thương con bạn nhưng làm thế là nối giáo cho giặc, đánh thức cái phần hư hỏng trong đứa trẻ. Làm một việc dễ dẫn đến hiệu quả tai hại – trong nhiều trường hợp phải gọi là một việc xấu -- mà lại cứ đinh ninh là làm việc tốt và vênh vang tự hào vì điều đó.

 

Rượu vang là thứ rượu tuyệt vời nhất

Nguyễn Lân Dũng

 Rượu vang có mặt trên thế giới cách đây ít ra là 5-6 nghìn năm. Người ta tìm thấy cặn rượu vang trong các vò đất nung bị vùi sâu tại những nơi có niên đại cách đây trên 5000 măm. Các bức tranh miêu tả cảnh dân chúng ép nho để lên men còn lưu lại bên trong Kim Tự Tháp có cách đây 6000 năm của Vua Phtah-Hotep. Trong kinh Cựu Ước có ghi lại việc sau cơn Đại Hồng Thủy ông Nô-ê (Noah) đã lấy nho mọc hoang dại để ép lấy nước và giữ cho lên men thành rượu vang. Gọi là rượu vang vì tiếng Pháp là Vin (Vigne là cây nho), tiếng Anh là Wine (Vine là cây nho), tiếng Nga là Vino. Rượu vang là phải làm từ quả nho, tuy nhiên về sau ở nước ta các lợi rượu hoa quả lên men nhưng không cất vẫn được gọi là rượu vang- vang mơ, vang sim, vang mận, vang điều, vang táo, vang hoa quả (hỗn hợp). Hiện nay trên thế giới có khoảng 75 866 km2 trồng nho và khoảng 71% sản lượng nho được dùng để sản xuất rượu vang. Diện tích trồng nho nhiều nhất theo thứ tự là Tây Ban Nha, Pháp, Italia, Thổ Nhĩ Kỳ, Hoa Kỳ, Iran, Rumani, BBồ Đào Nha, Argentina, Trung Quốc, Australia.

 Muốn có rượu vang nho phải trồng nho. Tất cả các loài nho đều thuộc chi Vitis, thuộc họ Vitaceae và thuộc bộVitales. Có tới 39 loài nho khác nhau được trồng ở Châu Âu , phổ biến nhất là loài Vitis vinifera. Loài này gồm nhiều biến chủng mang các tên thương phẩm nổi tiếng, đó là:

 -Nho Cabernet sauvignon . Đây là loại nho đỏ, dễ trồng , mọc khỏe, chịu đựng tốt mưa nắng,quả có vỏ dầy và là thứ nho nổi tiếng để làm rượu vang Bordeaux (Pháp). Loài nho này cũng được trồng và làm ra các loại rượu vang nổi tiếng ở California, Tuscany, Chilê, Australia...

 - Nho Merlot (tuy cùng loài nhưng ít tannin hơn và mau trưởng thành hơn). Cũng dùng để chế rượu cao cấp ở vùng Bordeaux và ở một số vùng bên Hoa Kỳ.

 - Nho Pinot Noir (cùng loài nhưng quả có vỏ mỏng,đòi hỏi chăm sóc kỹ lưỡng). Loại nho này là loại thượng hạng ở vùng Bourgogne (Pháp), đã di thực sang các vùng California, Oregon (Hoa Kỳ).

-Nho Chardonnay (khác với các chủng nho đỏ nói trên, đây là nho trắng, dễ trồng, dễ thích ứng với nhiều vùng địa lý khác nhau, cho quả sai). Loại nho này thường được dùng để chế ra các loại rượu nổi tiếng như rượu Bourgogne, Chablis (Pháp), Chardonnay (Hoa Kỳ, Chilê, Australia)

-Nho Sauvignon blanc ( cũng là nho trắng, hơi chua, đễ trồng nên phổ biến rộng rãi). Loại nho này xuất phát từ vùng thung lũng sông Loire (Pháp) sau đó di thực sang Châu Mỹ, Australia New Zealand.

-Nho Riesling (cũng là nho trắng, trồng được xứ lạnh). Loại nho này phát triển nhiều ở vùng lưu vực sông Rhine , Mosel-Saar-Ruwer, Wurttemberrg (Đức), Alsace (Pháp).

Ngoài loài Vitis vinifera với các chủng nổi tiếng nói trên còn có nhiều loài nho khác cũng được dùng để sản xuất rượu vang. Đó là các loài V.acerifolia, V.aestivalis, V.amurensis, V. arizonica (chống chịu sự chênh lệch nhiệt độ ngày-đêm ), V. bourquina, V.californica (chống chịu sâu bệnh và thời tiết lạnh), V.champinii, V. cinerea (dùng để lai ghép nhằm đề kháng với sâu bệnh), , V.doaniana, V. girdiana, V. labrusca, V. labruscana, V. lincecumii (dùng để lai ghép nhằm đề kháng với sâu bệnh), V. monticula, V. mustangensis, V.novae-angliae, V. palmata, V.riparia, V. rotundiflora, V. rupestris (dùng để lai ghép nhằm đề kháng với sâu bệnh),, V.shuttleworthii, V. tiliifolia, V. vulpina(chống chịu sương muối)...

Để sản xuất rượu nho đỏ phải chuyển nho không bị giập nát về nhà máy, loại bỏ cuống, cành, sau đó nghiền bằng máy. Đem tất cả khối lượng nghiền được cho vào các thùng gỗ lớn để cholên men tự nhiên nhờ các nấm men đã có sẵn trên quả nho. Nhiệt độ phải duy trì để không quá 320C. CXần khuấy đảo để không cho vỏ nho kết thành tảng nổi lên trên. Để hạn chế sự xâm nhập và phá hại của vi khuẩn (làm chua rượu) người ta dùng SO2 bổ sung với liều lượng thích hợp vào thùnh lên men. Tùy loại lên men mà có khi tăng cường độ chua bằng cách bổ sung acid tartric. Cũng có khi cần bổ sung đường để nâng cao độ rượu. Nhiều trường hợp sau khi lên men chính còn cần lên men phụ bổ sung để chuyển acid malic (chua gắt) thành acid lactic (chua dịu). Sau đó là giai đoạn gạn dần để loại bỏ cặn lắng đọng dưới đáy thùng. Phần phía dưới không thể cho tự chảy ra mà cần ép cho chảy ra. Phần này có khi bị loại bỏ hay được pha với phần trong (lấy ra trước) theo những tỷ lệ thích hợp. Việc pha chế là một công đoạn bí quyết nhà nghề trước khi đưa vào giai đoạn bảo tồn để lên hương. Giai đoạn này thường đựng rượu vang vào các thùng gỗ sồi, ít nhất cũng lưu trữ trong 4 tháng, trung bình là 1-2 năm, nếu lâu hơn thì chất lượng rượu vang càng ngon hơn. Sau cùng phải lọc cho thật trong trước khi đóng chai. Chai cũng phải được bảo quản từ 5-6 tháng đến vài ba năm trước khi đưa ra bán. Chất lượng nho chiếm 95% chất lượng rượu vang. Phần kỹ thuật và kinh nghiệm chỉ chiếm khoảng 5% mà thôi.

 

 

Để sản xuất rượu vang trắng cũng qua các công đoạn như sản xuất rượu vang đỏ nhưng phải chú ý thêm các khâu sau đây. Khi nghiền vỡ quả nho phải ép nhẹ nhàng để không làm cho sắc tố trên vỏ lây lan vào ; tránh ngâm với vỏ nho hay chỉ để tiếp xúc trong vài giờ ; lên men ở nhiệt độ khoảng 180C mà thôi ; lên men trong các nồi lớn bằng thép không rỉ có thể điều chỉnh nhiệt độ ; thời gian tồn trữ thường để ngắn hơn ; sau khi lọc cặn còn cần hạn nhiệt độ xuống tới âm 40C (-40C) để tách acid tartric (lắng xuống đáy).

 

 

Rượu Sâm banh (Champagne) cũng là một loại rượu vang nhưng có chọn lọc loại nho , rượu gốc có độ rượu là 11%, sau lên men lần hai là 13%. Lên men lần hai ngay trong các chai chịu áp suất có cho thêm đường, lên men ở nhiệt độ thấp (110C) trong 6-8 tuần, bảo quản trong 1-5 năm . Chai rượu để chúc đầu xuống và được xoay dần bằng tay cho cặn nấm men lắng hết xuống đầu chai, sau đó tống cặn ra bằng cách đưa cổ chai vào nhiệt độ rất thấp (-220C) để cặn đông lại và tháo nút chjo bật ra thật nhanh, bổ sung thêm một ít nước rượu hay nước đường rồi đóng nút và buộc chặt bằng dây kẽm. Ga càng nhiều chứng tỏ quá trình lên men càng lâu,chất lượng rượu càng tốt. Không có nước nào bổ sung cồn và nén khí CO2 công nghiệp vào rượu Champagne như một số cơ sở sản xuất ở nước ta. Khi mổ nút nổ rất to, có khi nổ 2-3 lần nhưng chất lượng không thjể chấp nhận được.

Rượu vang và rượu Champagne không trải qua quá trình chưng cất. Còn rượu Cognac là loại rượu chưng cất từ rượu vang và vì vậy có độ rượu rất cao. các cấp bậc của rượu Cognac được ghi trên nhãn là V.S. (Very Special), V.S.O.P . (Very Superior Old Pale), X.O. (Extra Old), và cao cấp nhất là Super- Catégorie.

Cho đến cuối năm 2005 các nhà khoa học đã xác nhận uống rượu vang đỏ với liều lượng vừa phải có tác dụng rất tốt đối với sưc khỏe. Cụ thể là làm giảm các nguy cơ cao huyết áp, nhồi máu cơ tim, tai biến mạch máu não, tuổi thọ cao hơn, giảm nguy cơ bị bệnh tiệu đường, chậm tiến triển các bệnh lão hóa (Alzheimer,loãng xương...)giảm nguy cơ ung thư tiền liệt tuyên, ung thư đại tràng, ung thư vú, ung thư phổi...

Uống vừa phải là 2 ly cho nam va 1 ly cho nữ mỗi ngày. Như vậy là không quá 30g ethanol (rượu ethylic) với nam và 20g ethanol với nữ mỗi ngày. Nên nhớ là lượng ethanol trong rượu vang là 8-18%, thường là 11-12%.

Vang Đà Lạt đã đạt đến mức độ được Chính phủ chọn để chiêu đãi các đoàn khách cao cấp của 21 nền kinh tế tham gia Hội nghi cấp cao APEC tại Hà Nội, trong đó có cả các nguyên thủ của nhiều nước lớn trên thế giới. Tuy nhiên chúng ta còn rất ít kinh nghiệm trong lĩnh vực này. Nghiên cứu để chọn lựa được các dòng nho chất lượng cao, sử dụng các thuốc sinh học trong phòng trừ sâu bệnh cho nho, tuyển chọn các chủng nấm men tạo được nồng độ rượu cao khi lên men, tìm các thùng gỗ thay gỗ sồi, tổ chức các vùng nguyên liệu đẻ có thể có các nhà máy sản xuất rượu vang hiện đại...Đó là những nhiệm vụ nặng nề và đầy triển vọng của các nhà nghiên cứu và sản xuất rượu vang ở Việt Nam. Sẽ đến lúc rượu vang Việt Nam đủ sức thay thế các loại rượu vang nhập khẩu và còn có thể xuất khẩu ra nước ngoài nếu tạo ra được một hương vị ngon lành và khác biệt với các loại rượu vang kinh điển trên thế giới. Tại sao lại không dám tin vào chuyện đó ?

Cho một lễ Tình Yêu ngọt ngào

Mùa để tôn vinh Tình Yêu đã đến. Valentine không chỉ còn là ngày lễ của các nước phương Tây mà giờ đây đã trở thành một ngày lễ ở khắp nơi trên thế giới, nhất là đối với các bạn trẻ – những người đang tìm kiếm tình yêu, hay đang trong vườn tình yêu, hay có thể đang ở những ngày đầu tiên để vun đắp cho khu vườn nhà mình ngày càng thêm đẹp.

Trong ngày lễ Tình Yêu năm nay, mình muốn chia sẻ với các bạn, nhất là các bạn nữ: Làm thế nào để cuộc sống của chúng ta luôn tươi vui, kể cả khi còn đang độc thân, lẫn khi đã có gia đình?

Khi bạn còn độc thân…

 … có thể bạn đã 25 hay suýt soát đầu “băm”, bạn bắt đầu thấy lo lắng vì mãi vẫn chưa tìm được người yêu lý tưởng.

Các bạn trai thì chê các cô gái thời nay chỉ biết ăn diện, tối ngày đòi người yêu đi shopping, nói chuyện chán phèo, còn các cô gái thì bảo các anh chàng bây giờ nói chuyện không tin được, nghe câu nào thấy hay hay thì có khi lại đâm nghi ngờ “Không biết là nói với bao nhiêu em rồi đây?”.

Đôi khi trong một đám đông đứng giữa những cô bạn gái hay bạn trai nổi bật, bạn cảm thấy mình lạc lõng và càng cảm thấy mình vu vơ trên con đường tình. Bạn thấy tủi thân khi bạn bè mình đã lần lượt có đôi, còn mình vẫn thui thủi một mình ư?

Nếu thế thì mình nghĩ là bạn đang phí hoài tuổi thanh xuân của mình rồi đấy. Bởi vì cuộc sống này có rất nhiều điều để bạn khám phá và trải nghiệm, nhất là khi khi còn độc thân – bạn có tự do tuyệt đối và có 100% quỹ thời gian giành riêng cho mình.

Tại sao không tranh thủ làm một chuyến xuyên Việt, đi tới các miền xa xôi mà bạn chưa từng đặt chân đến, tham gia các chương trình xã hội vốn rất cần nhiều đóng góp về thời gian của các bạn tình nguyện viên, rủ bạn bè tham gia một câu lạc bộ thể thao hay khiêu vũ mà bạn yêu thích, đi học thêm một lớp học về âm nhạc hay hội họa mà bạn vẫn ao ước từ thời bé.

Có biết bao nhiêu điều thú vị đang chờ bạn khám phá mà mỗi một trải nghiệm đó sẽ làm giàu vốn sống của bạn rất nhiều, giúp bạn hiểu được cuộc sống xung quanh mình hơn, cảm nhận sâu sắc hơn mỗi góc của nó và có được sự đồng cảm với mỗi con người mà bạn sẽ gặp trên đường đời. Cuộc sống luôn tiếp diễn và không chờ cho đến khi chúng ta hết cô đơn, hay hết lo lắng. Nó cũng không chờ cho đến khi chúng ta đủ tiền bạc, vật chất thì mới trao cho chúng ta hai chữ “Hạnh Phúc”. Cuộc sống luôn ở đó và trao cho chúng ta những cơ hội để khai phá bản thân, để hiểu mình hơn và thực hiện những ước mơ của tuổi trẻ. Trên con đường đó Cuộc Sống sẽ trao cho chúng ta một người bạn đời lý tưởng cùng chúng ta đi trên một con đường, cùng vượt qua những chướng ngại và tất nhiên, nhìn ngắm những cảnh đẹp hai bên.

Rồi bạn sẽ nhận ra cuộc sống một mình ngày xưa đơn giản quá, có thêm một người nữa thật chẳng đơn giản chút nào. Chắc chắn là như vậy rồi, nên khi quyết định từ bỏ cuộc sống một mình bạn hãy suy nghĩ kĩ nhé .

Và khi hai người…

Mình rất thích cảnh ông bà cụ già dắt nhau nhau trong ánh nắng đỏ của buổi chiều. Thật bình an và ấm áp. Hẳn là đôi vợ chồng nào cũng đều ao ước có được một tấm ảnh với nhau như vậy đến lúc cuối đời, một minh chứng của Tình Yêu bền vững qua thời gian.

Bạn có thể nghĩ rằng đôi vợ chồng già ấy chắc phải trải qua rất nhiều thăng trầm của cuộc sống, không biết bao lần xung đột, bao lần giận hờn mới đi được với nhau đến ngày hôm đó. Nhưng cũng có thể, ngày hôm đó cũng như bao ngày của họ mà thôi.

Bạn luôn nói rằng mình yêu chồng/vợ mình, nhưng lại vẫn cáu gắt với anh/cô ấy, giận hờn và trách móc anh/cô ấy…Một câu hỏi cũ rích “Bạn có yêu anh/cô ấy không?”.

Câu trả lời sẽ là:

Tôi yêu anh ấy, nhưng…

Tôi yêu cô ấy, nhưng…

Và mình nghĩ là mọi vấn đề của gia đình nằm đằng sau chữ Nhưng ấy.

Chúng ta rất dễ quên rằng bản chất của tình yêu là vô điều kiện. Thay vào đó là một thứ tình yêu ích kỉ, vì danh lợi, vì gia đình (đúng vậy, vì chính mình cũng chưa hẳn là tốt)…Dễ hiểu là thứ tình yêu đó không đem lại cho chúng ta sự bình an mỗi ngày, và cũng không đem lại một kết thúc hạnh phúc như chúng ta tưởng.

Ngược lại nếu chúng ta đặt tình yêu đôi lứa nằm trong một tình yêu lớn hơn – tình yêu đối với cuộc sống, với con người, với vạn vật, chúng ta sẽ thấy mình thật nhỏ bé và hữu hạn trong cuộc sống này. Nếu là vậy, sao phải hờn ghen, giận dỗi, trách móc nhau, bạn nhỉ?

Ai đó đã nói “Người với người sống để yêu nhau”.

Một chút cãi cọ có thể gọi vui là “gia vị” cho cuộc sống gia đình, nhưng nỗi tức giận mà vẫn còn ở trong lòng cho đến ngày hôm sau, rồi tích tụ với những nỗi bất bình khó chịu sau đó nữa, sẽ như quả bóng bị thổi căng và nổ tung một ngày nào đó. Và chắc chắn món muối gia vị này nếu quá nhiều chỉ làm hỏng món sô-cô-la tình yêu ngọt ngào đi mà thôi.

Cuộc sống là một hành trình của Tình Yêu. Và hôn nhân cũng chỉ là một cách đi trong hành trình đó mà thôi.

Chúc các bạn một lễ Tình Yêu ngọt ngào nhé

Hoàng Khánh Hòa

NGÀY VALENTINE ĐỌC THƠ YÊU VỢ CỦA VIỆT HẢI

Nguyễn Việt Hải qua nét vẽ Đỗ Trung Quân

 

 

Lang thang trên internet bất ngờ đọc thấy những câu thơ yêu vợ của Đặng Ca Việt * (bút danh của Nguyên Việt Hải,chồng nhà thơ Thu Nguyệt, hoạ sĩ trình bày của báo Tuổi Trẻ, bị tai nạn ô tô mất năm 2003) chợt bần thần mất mấy ngày. Thơ viết cho người  yêu thì nhiều, chặt hết cây trên trái đất để làm giấy chưa chắc đã chép hết; thế nhưng thơ yêu viết cho vợ thì hiếm lắm. Lão vua Ấn Độ Jahan thế kỷ 17 yêu vợ đến mức bỏ ra cả 30 năm để làm ngôi đền Taj Mahal tráng lệ cho người vợ có với mình đến 14 mặt con yên nghỉ, kể cũng là vô địch thiên hạ yêu vợ mấy ngàn năm; hoặc như “Đập cổ kính ra tìm lấy bóng. Xếp tàn y lại để dành hơi” của Tự Đức cũng thuộc loại xưa nay hiếm. Và yêu vợ đến độ: “Dép thơm em để lại nhà. Đem săm sói nhớ ngọc ngà bàn chân như Việt Hải thì hình như cũng thuộc hàng cao thủ chẳng kém ai!

 

Cũng giống như bao nhiêu gã đàn ông khác, những ngày đầu chung sống là những ngày ngập tràn hạnh phúc, các câu thơ kiểu như “Tận cùng hương vị thịt da, thương yêu làm đất trời hoà vào nhau” (Trần Mạnh Hảo), “Thả xuống con thuyền ngàn vạn những vì sao” (Phan Hoàng Phương) hoặc như Việt Hải : “Ta đi vào lòng nhau. Những đêm chăn giường thức” ... cũng nhiều; thế nhưng giữ cái tình yêu ấy bền chặt, không cũ mòn, lúc nào cũng cồn cào nhớ mong như Việt Hải không phải là dễ: Vợ đi vắng anh viết: “Ngoài hiên quỳnh nở, trăng đơn. Làn da trắng ấy như còn trên hoa. Trăng xoay về góc trời xa. Anh xoay lòng mãi vẫn là góc em”.

 

 

Yêu vợ, nhớ vợ mỗi lúc đi xa, anh làm thơ và gọi những bài thơ ấy là “Vọng thê” một, hai và ba. Trông chồng hoá đá còn được chứ ai lại trông vợ mà hoá đá ! Một xã hội vốn được xây dựng trên nền tảng tạo niềm vui cho đàn ông như xã hội ta hôm nay thì một anh chàng nào đó “Vọng thê” xem ra không thích hợp cho lắm. Thế mà Việt Hải yêu vợ và sung sướng công khai điều ấy bất cứ chỗ nào và trương nó lên trên cả những cái tít: “Thư cho vợ”, “Vợ ta”, “Thơ của vợ”, “Dặn vợ”... Hoặc như: “Thế kỷ hai mươi có gã điếc. Mần thơ bút hiệu Đặng Ca Việt. Lếu láo, ngông nghênh a, bờ, cờ. Ba mươi  được làm “ông Thu Nguyệt”; Người ta lấy tên theo chồng chứ ai lại lấy tên theo vợ một cách đầy sung sướng như anh chàng nầy đâu !; Vợ đi công tác, anh giúp vợ xếp áo quần vào chiếc samsonite và ước:

 

Xin được làm - khiêm tốn thôi - chiếc samsonite của em

Để được em cần tới.

Giữ giùm em cái áo, chiếc khăn,

         mùi da em, mùi tóc em thân thuộc vợ chồng...

Anh xin làm gương, anh mơ làm lược

Em soi mình, anh gỡ rối cho em

Nâng em phía sau, dìu em phía trước

Nhìn vào nhau vừa lạ vừa quen”. (Vọng thê 2)

 

Yêu lắm thì ghen nhiều, dĩ nhiên là vậy rồi, vợ minh xinh đẹp thế (cho dù là chỉ trong mắt mình thôi chứ không phải là hoa hậu đã được công chúng thừa nhận) thì người  ta ghẹo, (có khi do tưởng cũng nên) cũng là điều dễ hiểu : “tôi giật mình nhìn vào mắt những thằng đàn ông háo đủ thứ muốn nuốt chửng em”; nhiều thằng đàn ông ghen đến khổ, thế nhưng với Việt Hải thì ta hãy nghe Việt Hải ghen : “  Vợ hiền như chiếc lá me. Lỡ rơi không tiếng vọng về thì sao?! Phồn hoa thì lắm lối vào. Đường ra chỉ mở khi nào hương phai. Mùa theo mùa, ngày qua ngày. Vọng thê là bệnh của thời văn minh”. Trời đất, hình như anh hình dung vợ mình sẽ bị bắt cóc hoặc làm một cuộc “24 giờ trong đời người đàn bà” mà anh chỉ có thể gặp lại khi nào hương phai !

 

Điều này không được thích hợp lắm với “thời văn minh” nầy, thời mà bản lĩnh đàn ông được tôn vinh ở chỗ dám chơi, dám vui đến cùng và chuyện nhắc đến vợ con thường đồng nghĩa với cái gì đó hơi bị yếm thế, không thành đạt; thời mà ngồi bên chồng bên vợ người ta vẫn có thể nói chuyện với người tình qua những dòng tin nhắn, thì yêu vợ như Việt Hải xem ra sẽ khiến lắm người vợ thèm: “Dăm bận ta vờ khen tặng vợ:- Em rất ngoan và em vẫn xinh. Nhói lòng ta biết tại ta tất. Hoa thơm ai đã cắm vô sình”.Hoặc :Thôi thì. Em là hoa. Ta làm cỏ vậy... Chiều ấy ngồi bên đời ta hát. Một gã tình si bệ rạc. Mong làm êm bước em đi”.

 

Ngày valentine, bất chợt bắt gặp những câu thơ yêu vợ của Việt Hải và muốn thật nhiều người biết về nó. Hải là hoạ sĩ, để dời là những tác phẩm mỹ thuật, anh đồng thời có viết văn làm thơ, thế nhưng hình như chính những câu thơ yêu vợ này mới khiến anh bất tử, trăm năm nữa những ông chồng cũng sẽ giật mình khi biết có người yêu vợ đến vậy. Thế nhưng sẽ không có ai giật mình hết nếu không có bài “Grand Prix” dưới đây. Hải sẽ chỉ là thằng đàn ông yêu vợ vì lỡ có vợ đẹp, hoặc là một thằng yêu vợ hơi bị mù quáng, bản năng, hoặc chẳng có dịp nếm mùi thế giới bên ngoài bao rộng. Trong bài “Grand Prix” Hải thể hiện rõ lòng yêu ấy là một quá trình nhận thức như bất cứ thằng đàn ông nào khác, cũng yêu nhau mà cưới, rồi cũng lãng quên, cũng hành hạ nhau đến rớm máu, và em thì “đẹp dần lên” chứ không phải là rước hoa hậu về nhà:

 

 

 

 

Tôi mẫn cảm

Run lên sung sướng trước một bức tranh đẹp

Nhưng nhận thức về em hơi bị chậm.

 

Vì lý do nào đó tôi chẳng quan tâm

Rằng tôi yêu em hơn bất cứ người đàn ông nào khác

Em không cần quà tặng

Và tôi  tay trắng đón em...

 

Mãi đến lúc ra đời những đứa trẻ mang ADN của tôi và em

Mãi đến khi tôi giật mình

nhìn vào mắt những thằng đàn ông háo đủ thứ  muốn nuốt chửng em

Đến khi em là em, hoang dã loài hoa chưa ai đặt tên, hoang dã biển bão núi lửa, hoang dã con sẻ bị tên...

Đến khi tôi đổ sập bằng cơn địa chấn bảy độ richter

Tôi vùi trong đêm cô đơn đại dương

Em vùi trong tôi mềm rũ cọng bún mắc mưa

Em đẹp dần lên...

  

Khi tôi chết

Nhớ khắc giùm tôi câu này lên bia đá:

Đây là chiếc giường hạnh phúc vĩnh cửu

của một thằng khờ được giải Grand Prix cuộc đời

mà không cần trải qua một cuộc đua nào.

 

Người ta hay nói tình yêu thì bất tử. Chẳng biết nó bất tử thế nào chứ trong trường hợp nầy thì quả thật trăm năm nữa người ta cũng sẽ nhớ đến Hải với những câu thơ yêu vợ đơn giản mà khó ai viết nổi ấy.

 

Hồ Trung Tú

 

 

<span>Một bài thơ của Việt Hải:</span>

 

Buồn

 

Buồn như tiền kiếp đoạ đày

Buồn như hoa rụng cuối ngày, tàn đông.

 

Buồn như tiếng của thạch sùng

Buồn như một phút tưng bừng vừa qua.

 

Buồn như em chẳng yêu ta

Buồn như mình sắp rời xa cuộc đời.

Việt Hải

 

 

Khong de... (Tho to tinh)

Không đề...

Chọn mãi mới được một ngày
Gặp em để quyết giãi bày yêu thương
Hai đứa ngồi trên bờ mương
(Công nông thì chạy trên đường, bụi ghê !! )
...Cứ thế mà buôn dưa lê
Mãi không đề cập vấn đề trọng tâm
Anh liền nói chuyện lòng vòng
Đợi em sơ ý là cầm tay luôn..
Ngờ đâu anh chộp đã nhanh
Em rút tay lại còn lành nghề hơn
Mất đà anh lộn xuống mương
Bò lên đã thấy em chuồn từ lâu.
Vừa về anh vừa lầu bầu..
(st)

 

ĐẦU XUÂN, GS NGUYỄN LÂN DŨNG ĐỌC KINH DỊCH

 

Đầu Xuân đọc Kinh Dịch

Nguyễn Lân Dũng  

Hiện nay có rất nhiều sách viết và dịch về Kinh Dịch. Các bạn trẻ lật vài trang xem qua thấy chưa hiểu gì cả, vì vậy, ít bạn chịu khó đọc kinh Dịch. Ngược lại, có bạn đọc ít nhiều sách về Kinh Dịch lại chuyên đem chuyện này ra để loè bè bạn và dự đoán lung tung về số phận từng con người.

Thật ra Kinh Dịch là cái gì vậy?

Kinh Dịch có từ bao giờ, đến nay vẫn chẳng ai hay, bởi vì từ đời vua Phục Hy tương truyền đã bắt đầu có Kinh Dịch rồi, mà ông vua huyền thoại này xuất hiện cách đây hàng nghìn năm hay hàng vạn năm thì hiện vẫn chưa có gì chứng minh được. Tri qua hàng nghìn năm, không biết bao nhiêu vị thánh hiền đã bổ sung, đã lý giải, mở rộng, đào sâu để cho Kinh Dịch trở thành một tác phẩm vừa lạ lùng, vừa uyên thâm, vừa mênh mông, vừa cụ thể, bao hàm muôn lý, không gì không có, đọc nhiều cũng được, đọc ít cũng hay, bởi vì chỉ đôi câu đã đủ làm thành một đạo lý rồi. Đời nhà Tống, khi viết về Kinh Dịch học giả Trình Di đã phải thốt lên: “ Thánh nhân lo đời sau như thế có thể gọi là tột bậc”.

Không phải không có lý khi cụ Phan Bội Châu coi Kinh Dịch “Là nhân sinh quan và vũ trụ quan của nhân loại”. Cụ Phan cho rằng đúng như tinh thần Kinh Dịch: “Bình đẳng, đại đồng là chân tính, là hạnh phúc của nhân sinh”, “Tinh thần có quy củ trật tự đạo đức là lẽ công bình của mỗi người”.

Những tư duy Khổng học như “Không sợ dân nghèo mà chỉ sợ phân chia không đều” (sách Luận ngữ), “Tính kế trăm năm không gì bằng trồng người” (sách Hán thư) …

Kể cũng lạ thật, người xưa cho rằng: “Trong khoảng trời đất có gì? Chỉ hai chữ âm dương mà thôi”. Chẳng là nhân thì là nghĩa, chẳng cứng là mềm, chẳng thừa là thiếu, chẳng nam là nữ, chẳng trên là dưới, chẳng trong là ngoài, chẳng thịnh là suy, chẳng nhiều là ít, chẳng khen là chê, chẳng tiến là lùi, chẳng mặn là nhạt, chẳng nhanh là chậm, chẳng xấu là tốt, chẳng to là nhỏ, chẳng trước là sau, chẳng rủi là may.

Hoá ra lâu nay ta quá say sưa với triết học Tây phương mà ít chú ý đến triết học Đông phương, trong khi đó thì người dân thường tuy ít học nhưng lại thường tin tưởng và làm theo vô số những lời dạy của thánh hiền. Sự biến động ghê gớm của các nước phương Tây với đầy những mâu thuẫn nội sinh đồng thời với sự hưng thịnh đột xuất của không ít quốc gia châu Á, kể cả sự phục hồi nhanh chóng sau khi xảy ra tình trạng khủng hoảng tài chính, kinh tế…đã làm cho cả nhân loại không thể không chú ý nhiều hơn đến triết học Đông phương. Văn minh châu Á trở nên hấp dẫn đối với hàng tỉ người dân bình thường ở phương Tây. Kinh Dịch là một trong những thần kỳ của triết học và văn minh Đông phương.

Trong hoạt động của con người rõ ràng là âm dương luôn luôn biến động, song thường vẫn giữ được những sự tự điều chỉnh của cơ thể, nếu không ắt hẳn sẽ sinh ra ốm đau, bệnh tật.

Trong hoạt động xã hội, cái thế của nó là Dịch, cái lý của nó là Đạo, cái dụng của nó là Thần, âm dương khép ngỏ là Dịch, một khép một ngỏ là Biến. Ở đời, dương thường thừa, âm thường thiếu, chính vì không bằng nhau nên đã sinh và sẽ sinh muôn vàn biến đổi. Đạo trong gầm trời này chỉ là Thiện-ác, nhưng cái thời, cái cơ bản của mỗi lúc một khác, không phải lúc nào cũng giống nhau. Phải hiểu rõ ràng các phép tu, tề, trị, bình thì mới quản lý được xã hội.

Cổ nhân dạy rằng: “Bất học Dịch khả dĩ thức tạo hoá chi đoan” (Không học Dịch làm gì rõ được đầu mối của tạo hoá). Ngược lại: “Dịch thông tắc vật lý tự thông” (Dịch mà thông thì sự lý trong vạn vật khắc thông).

Ngũ hành có Kim, Mộc, Thuỷ, Hỏa, Thổ.

Bát quái có Càn, Đoài, Ly, Chấn, Tốn, Khảm, Cấn, Khôn.

Thiên can có Giáp, ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quí.

Địa chi có Tí, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tị, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi.

Chu kỳ của cửu cung là 1 (Khảm) > 2 (Khôn) > 3 (Chấn) > 4 (Tốn) > 5 (Cấn) > 6 (Càn) > 7 (Đoài) > 8 (Cấn) > 9 (Ly) > 10 (Khảm).

Ngày xưa, cổ nhân ngẩng đầu lên quan sát bầu trời, quan sát sự vận hành của mặt trời, mặt trăng và các tinh tú, cúi đầu xuống xem phép tắc dưới đất, xem những sự thích nghi của muôn loài, ngẫm nghĩ ngay về cơ thể mình và nhìn ra xa, gần từ đó làm ra các quẻ để thông suốt đức thần minh, để điều hoà cái tình của muôn vật.

Dịch bắt nguồn bằng các hình ảnh, nói đúng hơn là các phù hiệu, mỗi quẻ có ba hào gồm hào âm, hào dương, ba hào xếp thành ngôi dưới, ngôi giữa, ngôi trên (đối xứng với đất, người và trời), quẻ đơn gọi là kinh quái, quẻ kép gọi là biệt quái. Vì sao như vậy, thì thượng cổ đã làm gì có văn tự. Bát quái, thái cực, hà đồ, lạc thư… đều là hình ảnh.

Người xưa nói: “Đông tình vô đoan, âm dương vô thủy”, còn nói: “Vật phương sinh phương tử”. Có nghĩa là âm dương không có cái trước cái sau, không có cái này sinh ra cái kia, mọi vật đều vừa sinh vừa tử. Thực ra thì cũng không thể phân biệt rạch ròi âm dương, sinh tử. Gọi là dương khi phần dương lấn át phần âm và ngược lai, gọi là âm khi phần âm lấn át phần dương. Âm dương xen kẽ nhau và hàm chứa lẫn nhau. Âm dương lúc dày (thái), lúc mỏng (thiếu) cho nên mới có thiếu dương, thái dương, thiếu âm, thái âm. Âm là bề trái, dương là bề phải, âm là bề lưng, dương là bề bụng, âm là vật chất bên ngoài, dương là tinh thần bên trong, âm thuộc về đất, dương thuộc về trời, âm nặng nên xuống đất, dương nhẹ nên lên cao. Gọi là âm dương (chứ không gọi là dương âm) có cái lý của nó. Cái gì cũng từ dưới đi lên, từ ngoài vào trong, có phần tối mới nổi được phần sáng.

Kinh Dịch thật là thú vị nhưng cũng thật là khó. Đọc mãi không hiểu đừng vội lấy làm lạ. Đọc lại chỉ hiểu thêm một ít. Đọc thêm nữa lại hiểu nhiều hơn. Có nhiều sách kinh dịch, nhưng theo thiển ý của tôi thì chỉ nên đọc nguyên bản Kinh dịch qua bản dịch của học giả cừ khôi Ngô Tất Tố. Đọc Kinh dịch qua sự giải thích của người khác mất hết cả sự thiêng liêng, huyền bí, vả lại đã chắc gì hiểu được đúng để giải thích cho người khác.

Chính vì vậy, các bạn trẻ đừng đọc Kinh Dịch như đọc tiểu thuyết mà nên đọc dẫn từng đoạn, đọc vào lúc yên tĩnh, lúc tâm hồn êm, thanh thoát. Chỉ đọc như vậy mới mong đạo lý lưu thông, nghĩa tình bao quát. Khổng Tử đã bảo là phải “ học Dịch” ( chứ không phải là đọc Dịch), thật là chí lý!

Bạn đọc cứ đọc đi và thấy hiện dần vô số điều tâm đắc.

Hãy xem vài ví dụ:

Trong quẻ Kiền [đã in là Kiều, nay sửa lại - NXD] có lời Kinh: “ Thượng hạ vô thường, phi vi tà dã, tiến thoái vô hằng, phi ly quần dã... ” (Lên xuống bất thường, không làm điều xấu, tiến lui không nhất định, đừng xa rời quần chúng ... ).

Trong quẻ truân có lời Kinh: “ Tuy bàn hoàn chỉ hành chính dã. Di quí hạ tiện, đại đắc dân dã ... ” (Tuy gian truân có chí sẽ làm nên, là người hiền chịu dưới kẻ hèn, nhưng rồi sẽ được dân tin...) .

Trong quẻ Mông có lời Kinh: “ Lợi dụng hình nhân, dĩ chính pháp dã...” ( dung quẻ phạt người để giữ nghiêm pháp luật).

Quẻ Nhu có lời Kinh: “ Nhu, hữu phu, quang ranh, trinh, cát, lợi thiệp đại xuyên...” (Mềm mỏng nếu có lòng tin sẽ sáng láng, hanh thông, chính bền là tốt, có lợi cho việc vượt sông lớn...).

Quẻ Tụng có lời Kinh: “Tụng nguyên cát, dĩ trung chính dã...” (Trong thì nghe không lệch, chính thì xét xử hợp tình...).

Nếu vừa “học Dịch” vừa học thêm chữ Hán trong lời Kinh thì càng ích lợi và thú vị thêm biết bao. Đừng quên rằng trong ngôn ngữ của nhân dân ta hiện nay có tới trên 60% số từ có nguồn gốc từ âm Hán. Nếu tính cũng đừng quên rằng trên thế giới cứ 6 người thì có tới gần hai người biết chữ Hán.

Thiết nghĩ, trong thời buổi cái đúng, cái sai còn lẫn lộn; người tốt, người xấu chưa tường minh; khó chung, khó riêng còn đầy rẫy; nên nhớ rằng cái gốc của dân ta thì mãi mãi là tốt, đường lối đi lên đã được mở. Trong điều kiện như vậy mong sao mỗi bạn trẻ mỗi tuần có xếp chút thời gian để bình tâm đọc (đúng hơn phải nói là học) Kinh Dịch. Nghe lời người xưa mà ngẫm đến chuyện ngày nay, nghe lời thiện mà tránh điều ác, nghe lời nhân mà làm điều nghĩa...

Cuộc đời sẽ đẹp thêm biết bao, tâm hồn mỗi người sẽ rộng mở và sáng láng thêm biết bao, quan hệ giữa người với người sẽ tốt lành hơn biết bao- bạn cứ kiên nhẫn đọc đi, sẽ thấy đúng là như vậy đấy.

 

 

 

 

 

CĂN HỘ BÊN SÔNG ELBE (Chuyện Đời)

  
Nhiều tổ chức nghiên cứu về Xã hội học cũng như Phân tâm học đều có thống kê tên họ của những cặp vợ chồng có tình trạng hôn nhân bền vững trên thế giới. 
   
Con số thống kê cho thấy hầu hết những cặp vợ chồng có đời sống hôn nhân lâu dài và đầm ấm đều có tên gọi rất gần gũi nhau về cách phát âm, hoặc có liên quan đến một khái niệm chung nào đó, hoặc đều gợi cảm định hướng về một vấn đề, một qui luật hay một mẫu số chung ....
 
Họ lý giải rằng những tên gọi gợi cảm về một khái niệm "tương tự" nhau. Được lặp đi lặp lại nhiều lần trong suốt chiều dài của cuộc sống đã hình thành một chuỗi âm thanh như "khẩu quyết" như một "mặc ngôn" (Thần Chú) để tạo thành một "nhịp điệu" điều hòa làm tăng khả năng hòa hợp trong hôn nhân. Chính vì vậy mà những cặp vợ chồng có tên gọi như theo cách trên dễ có đời sống hôn nhân lâu bền và chan hòa hơn các cặp vợ chồng có tên gọi "trái khoáy".
  
Theo các nhà nghiên cứu về huyền học cũng như khoa học thực dụng, thì tần số giao động âm thanh có ảnh hưởng rất lớn đến đời sống tinh thần cũng như sự trao đổi năng lượng sống trong cơ thể con người. Chính vì vậy mà Âm nhạc, hò vè, ca hát, nhạc cụ trong lễ hội ...đóng một vai trò rất hệ trọng trong đời sống Tôn Giáo, cũng như những hoạt động sinh tồn của loài người.
  
Những nghiên gần đây nhất của Y học hiện đại cho thấy ảnh hưởng của các loại tần số Ánh sáng cũng như Âm thanh đến từng cấu tạo và chức năng hoạt động vi tế nhất của cơ thể còn mạnh hơn, nhạy cảm hơn cả tác động của hóa chất và các tác động vật lý va chạm khác.
  
Ví dụ trong công trình nghiên cứu "NHỊP SỐNG" (LEBENS- schwingung) của Giáo sư Andreas Günther và Tiến sĩ Georg Salcher có một số thông số như sau:
   
- Âm thanh (ton) có tần số dao động 218,02 Hz có tác động ảnh hưởng trực tiếp đến tiểu não, tai, mũi, và sắc diện của khuôn mặt, tác động mạnh vào tuyến hóc môn Hypophyse ở não bộ, kích thích hoạt hóa hóc môn Thyronin và Vasopressin TSH.
   
- Âm thanh (ton) có tần số giao động 230,86 Hz có tác động trực tiếp đến cấu tại và hoạt động của các cơ quan nội tạng như tất cả các thành phần mỡ, cột sống, xương, răng, móng tay, móng chân, hai bắp chân, ruột, máu và bồi đắp hoạt chất cho tế bào...loại âm thanh có giao động này có tác động mạnh lên tuyến hóc môn thượng thận và ảnh hưởng đến sự điều tiết của hóc môn Adrenalin, Noradrenalin, Aldosteran...
  
- Âm thanh có tần số dao động 145,35 Hz có tác dụng trực tiếp đến các cơ quan bộ phận của bụng dưới, như vùng xương chậu, thận, bàng quang, hệ thống tiêu hóa và hệ thống sinh dục. Có tác dụng đến các tuyến hóc môn ở buồng trứng, dạ con..và tiền liệt tuyến. Kích hoạt các loại hóc môn Ostregene, Testosterone.
  
- Âm thanh có tần số dao động 174,52 Hz có tác động trực tiếp lên vai trên, vùng ngực,  tim, da, hai bàn tay, hệ thống tuần hoàn máu, hoạt động của phổi...và có khả năng kích hoạt tuyến giáp trạng và các loại hóc môn của nó.
...
Tất nhiên có rất nhiều ngưỡng dao động khác nữa, và mỗi ngưỡng giao động đều có ảnh hưởng đến một số bộ phận và chức năng cơ thể khác nhau. Tôi sẽ có dịp trình bày về đề tài này trong một dịp khác.
 
Đưa ra những ví dụ trên để chứng minh cho luận cứ của các nhà Phân tâm học là tên gọi của vợ chồng có ảnh hưởng không ít đến sự bền vững và hài hòa của hôn nhân.
  
 Do tần số dao động "TON" âm thanh của những tên gọi đó có tần số có khả năng tương tác hổ trợ và cộng hưởng để tạo ra sự cân bằng hài hòa. Đó là nguyên nhân để những cặp vợ chồng có tên gọi nằm trong hệ "tương tác" thường có xu thế hôn nhân bền vững và hạnh phúc.
   
Nếu các bạn chịu khó để ý, các bạn sẽ thấy lý thuyết của các nhà Phân tâm học đưa ra theo thống kê, không phải là không có căn cứ thực tế. Nhất là đối với tên gọi đơn âm nhưng lại có âm sắc và ngưỡng phát âm đa dạng theo dấu của người Việt thì lý thuyết trên càng tỏ ra có bằng chứng thực tiễn rõ rệt hơn.
  
Tôi ví dụ, bây giờ bạn hãy cố nghĩ lại xem bạn có bao nhiêu người bạn quen biết, bao nhiêu người thân trong gia đình, hoặc là người giao thiệp sơ ngoài xã hội có tên là gọi là Tuấn. Rồi bạn làm một phép đếm có bao nhiêu người đàn ông tên Tuấn có vợ tên là Thủy. Bạn cứ nghĩ lại và liệt kê ra đi, bạn sẽ bị bất ngờ đến kinh hoàng khi có một tỷ lệ người tên Tuấn có vợ tên là Thủy nhiều đến mức không thể tưởng tượng nổi.
  
(Tôi đã thống kê tất cả những người tên Tuấn mà tôi quen biết, thì có đến 14 cặp vợ chồng tên Tuấn-Thủy trong 21 cặp có chồng tên Tuấn. Và đa số những cặp Thủy-Tuấn này đều hoạt động trong những lĩnh vực có liên quan đến sức khoẻ con người, một vài cặp buôn bán đồ trang sức, một cặp bán sách báo và đồ Ki-ốt, một cặp hoạt động trong lĩnh vực cho vay nặng lải...hè hè....
  
Có lần trên một chuyến tàu cao tốc, tôi gặp một khách đầu đen, khi lên tàu anh đến ngồi bên tôi và hỏi "Anh người Việt Nam hả". Tôi trả lời "Vâng, tôi tên là Nghĩa". Anh ta đáp lại "Tôi tên là Tuấn, người Hà Đông". Tôi hỏi "Chị Thủy dạo này ra sao hả anh Tuấn". Anh ta bình thản "Vâng, nhà tôi vẫn khoẻ...ơ mà này, anh có quen biết với nhà tôi à". Tôi cười nói "Quen biết gì đâu, đàn ông tên Tuấn nào mà chả có vợ tên Thủy, hỏi đại vậy thôi". Anh ta nghệt mặt ra một hồi rồi đáp "Ơ mà hay nhỉ, mình có mấy người quen tên Tuấn cũng đều có vợ tên Thủy đấy". Tôi khẳng định "Đương nhiên, chuyện ấy có gì lạ đâu"...Chuyện này có thật 100% đới, tôi mà bốc phét, tôi chết liền...hì ..hì...)
  
Một loại cặp đôi khác thường gặp nữa là cặp "Dũng-Hiền". Cũng tương tự thống kê như cặp "Tuấn-Thủy". Bạn cũng sẽ bất ngờ vì sự ngẫu nhiên đến kỳ lạ như thế: Đa số những đàn ông tên Dũng đều có liên quan "tình ái" với đàn bà tên Hiền. Và hầu như tất cả những cặp đôi có tên "Dũng-Hiền" đều không có cặp nào bị tan vỡ hôn nhân cả.
 
Thống kê những đàn ông tên Dũng mà tôi đã gặp và quen trên nước Đức, thì có 11 người tên Dũng, trong đó có 9 người có vợ tên Hiền. 9 cặp Dũng-Hiền này hiện vẫn đang sống với nhau hạnh phúc, và tất cả họ đều là những người mới kết hôn một lần (Trừ đám cưới giả). Trong hai người tên Dũng không có vợ tên Hiền, thì một người bỏ vợ, và một người khác bị vợ bỏ..(he he he...đừng chửi í em đấy nhé).
  
Ngay ở thành phố Hamburg này đây, tôi đã biết có đến 4 cặp Dũng-Hiền. Trong đó có 3 cặp làm nghề nhà hàng, một cặp có tiệm làm móng tay giả.
  
Chuyện tôi muốn kể là chuyện của cặp Dũng-Hiền gần chung cư tôi ở. Hai người này có một nhà hàng loại vừa ở tiểu khu Atona, gần khu St. Pauli là khu ăn chơi đèn đỏ nổi tiếng thế giới.
  
Có lẽ do qui luật bù trừ, người ăn nói chụp giựt, cục mịch như dùi cui chấm nước mắm, khi viết lách điều gì thì cứ hay tràng giang đại hải, vòng vo Tam quốc. Còn người có tài ăn nói, có tài hùng biện thì lúc viết lách thì câu chẳng nên câu, chữ ra không ra chữ.
 
Tôi thuộc loại biếng nói, lúc trò chuyện hay đàm thoại qua điện thoại, tôi thường có phong cách kiểu "gạch đầu dòng" những ý chính, và bao giờ kết thúc câu nói cũng là câu "Còn vấn đề gì nữa không?". Vì biếng nói cho nên lúc viết thì "bù trừ" thành loại "thiên thung bang nai". Cũng chính vì đặc điểm này mà tôi phải bị hệ lụy mấy cú thất tình rồi đấy.
  
Cú thứ nhất cách đây đâu dăm bảy năm gì đó, tôi quen được một em. Tuy không phải thuộc loại chân dài như Trường Thành, nhưng cũng thuộc loại có thể gọi nôm na là mỹ nhân. Tôi với em cũng khá tâm đầu ý hợp. Chỉ hơi trục trặc một tý là chúng tôi ở và làm việc không cùng một thành phố. Vì vậy chỉ có gặp gỡ nhau vào dịp cuối tuần.
  
Trong tuần, thỉnh thoảng em lại gọi điện cho tôi "anh ơi, anh đang làm gì đó, em nhớ anh lắm, anh có nhớ em không,...". Tôi: "Có, còn vấn đề gì nữa không?". Tình trạng đó kép dài một thời gian. Rồi vào một cuối tuần nọ, tôi đến thăm em. Khi tôi gõ cửa, em hé hờ cánh cửa và nói "anh đến làm gì đấy". Tôi: "Anh nhớ em lắm, nên đến thăm em". "Còn vấn đề gì nữa không". Em hỏi tôi xong, đóng cửa cái rầm. Thế là xong một cuộc tình.
  
Cú thứ hai là cách đây 3 năm. Tôi cũng quen một em khác. Tuy ở gần nhau, và hầu như ngày nào cũng gặp nhau. Nhưng tối nào chúng tôi cũng gửi mail cho nhau. Rồi một ngày nọ khi thời cơ đã chín muồi, tôi thấy đời mình không thể thiếu em được nên viết một bức thư ngõ lời. Ý chính của bức thư là tôi cảm thấy rất thích em, và muốn tiến xa hơn tình bạn. Không biết tôi tràng giang đại hải thế nào mà thư em trả lời như vầy "...Cảm ơn anh về thông tin về dự báo thời tiết của trái đất trong những thập niên tới, cũng như tình hình chiến loạn ở Biển Đông và nguy cơ hiểm họa của việc khai thác Boxit ở Tây Nguyên. Đặc biệt là những thông tin quí báu về việc luyện tập dưỡng sinh và cách ăn uống vệ sinh nhằm phòng chống những căn bệnh của thế kỹ. Em rất tâm đắc với những vấn đề anh đã đề cập đến. Em sẽ cố gắng lưu lại những thông tin này vào máy, để khi nào em cưới chồng, em sẽ truyền đạt lại co chồng em biết những tin tức quí giá này...". Vậy là đời tôi lại phải gánh thêm một gánh nặng thất tình nữa..he he he...
  
Vẫn biết rằng, văn viết trên mạng cần phải ngắn gọn súc tích, ngắn câu nhưng phải dài ý mới có người ghé mắt vào đọc. Chứ loại chuyện kể nhìn vào đã thấy hun hút mút mùa Lệ Thủy như thế này, thì chả có ai thèm để mắt tới đâu. Biết vậy nhưng vì đã thành tật nên khó mà bỏ được.
  
Chính vì vậy mà trước lúc kể chuyện về cặp đôi Dũng- Hiền của quán Asia Wok, tôi cũng phải thói quen đảo một vòng hươu vượn trước đã.
  
Còn bây giờ thì các bạn hãy nghe tôi kể một câu chuyện phải nói là khá ly kỳ và hy hữu nhưng có thật 100%  của cặp đôi Dũng- Hiền này.
    
    
                CĂN HỘ BÊN SÔNG ELBE
     
Dũng-Hiền của quán Asia Wok ở gần khu đèn đỏ St. Pauli, sát bên cảng Hamburg là một đôi vợ chồng "song kiếm hợp bích" rất hi hữu trong giới làm nhà hàng ở vùng Bắc Đức. 
  
Hiếm có cặp vợ chồng nào kinh doanh nhà hàng theo System (phương châm) "Chồng trong, Vợ ngoài" mà được khả năng "song kiếm hợp bích" hay như cặp này.
  
System "chồng trong vợ ngoài" là phương pháp kinh doanh nhà hàng ăn uống theo kiểu "China Restaurant" vào thời "mặt vận" của nghề làm ăn này ở nước Đức. 
 
Vào thời kỳ kinh tế châu Âu khủng hoảng, cộng với sự "khiếp đảm" trước các thương hiệu Madein China của người bản xứ. Đồng thời với sự xuất hiện các cơn sốt "cúm gà", "cúm heo", "cúm gia cầm".... Việc kinh doanh nhà hàng ăn uống có xuất xứ châu Á gặp rất nhiều khó khăn và trở ngại. 
  
Để cứu vãn tình hình thất thu tránh bị phá sản, các nhà hàng ăn uống loại vừa, các quán ăn nhanh theo thương hiệu "đặc sản Á châu" phải giảm bớt chi phí đến mức thấp nhất. Trong đó biện pháp hữu hiệu nhất đó là giảm công nhân. Vì tiền lương lao động ở Đức rất cao, cho nên giảm người làm cũng đồng nghĩa với sự tiết kiệm chi tiêu tối ưu nhất.
  
Công việc kinh doanh nhà hàng ăn uống đòi hỏi rất nhiều công sức, nếu thuyên giảm người làm không hợp lý, sẽ rơi vào trường hợp "lủng". Có nghĩa là phục vụ không kịp cho khách hàng. Chính vì vậy mà hầu như các quán ăn nhỏ, đều lui về cố thủ kiểu "công nghệ gia đình".
 
Mà mô hình điển hình nhất chính là mô hình "Chồng trong, Vợ ngoài". Có nghĩa là phía trong bếp do chồng phụ trách, phía ngoài ngoài do vợ làm bồi. Nghề kinh doanh nhà hàng tiền chi tiêu nặng nề nhất là tiền lương phải trả cho đầu bếp và bồi chính. nếu tránh được khoản chi tiêu này thì kinh tế suy thoái kiểu gì, sự cố ngoại cảnh ảnh hưởng kiểu gì, nhà hàng vẫn có thể "sống" được.
  
Chính vì đặc điểm ưu việt, manh tính chất "sống còn" của System "Chồng trong, Vợ ngoài" như vậy, nên khi đảo qua các nhà hàng nhỏ, các quán ăn nhanh của người Việt trên nước Đức, chúng ta sẽ thấy hầu hết là kiểu "song kiếm hợp bích" này.
  
Tuy nhiên cái System sống còn này của dân kinh doanh nhà hàng cũng gặp phải trở ngại lớn. Đó là tình trạng "song kiếm hợp bích" bị suy thoái thành cảnh "ông chằng bà chuộc".
 
Nguyên chủ yếu dẫn đến cảnh suy thoái của Sytem này là do vợ chồng rất khó hợp tác với nhau trong công việc. 
 
Về phần người chồng, do công việc lu bu không ngưng nghĩ, vừa ngơi tay xóc chảo là phải quay sang chuẩn bị đồ đặc cho cho "trận" tiếp theo. Từ sáng đến tối úp mặt vào lò, quanh năm suốt tháng hít phải khí ga, mùi dầu mỡ. Lại ăn uống toàn đồ nhà hàng mà chủ yếu là các loại thức ăn có tính nóng. Vì vậy hầu như đầu bếp nhà hàng nào cũng lâm vào tình trạng gan bị nóng. Chính vì đặc điểm đó mà hầu hết đầu bếp nhà hàng Tàu đều rất cục mịch và nóng nảy, rất dễ bị kích động phẩn nộ vô cớ.
    
Phần người vợ phụ trách bên ngoài cũng không khá hơn, mỗi ngày phải chạy đi chạy lại, bưng bê, lau dọn...Tính ra đôi chân cũng phải khua qua hàng chục cây số trong tình trạng bị nhiều áp lực thần kinh do phía khách hàng đưa lại
  
Chính vì hai đặc điểm này của đầu bếp và bồi chính nên System "Chồng trong, Vợ ngoài" rất khó hình thành những cặp có tính "song kiếm hợp bích" một cách hoà thuận và ngoạn mục.
  
Vợ chồng Dũng-Hiền, không phải đợi đến mùa suy thoái kinh tế mới sử dụng system này.
 
Ngay từ ban đầu mới mở nhà hàng. Cái Hiền đã nhận thức ra được ý nghĩa sống còn của System này rồi. Cho nên khi mới khai trương nhà hàng. Hiền đã sắp xếp cho nhà hàng hoạt động theo phương châm này. Dũng phụ trách trong bếp. Hiền chịu trách nhiệm phía ngoài. Vì vậy nhà hàng của chúng nó tuy không hoành tráng qui mô tầm cỡ "sao" như các nhà hàng khác nhưng hiệu suất kinh tế thì hơn rất nhiều nhà hàng có tiếng tăm trong vùng.
  
Hồi mới về Hamburg, Dũng làm thuê cho nhà hàng Dynasty của tụi Tàu Đài Loan. Hiền thì mới sinh cái Phượng. Một hôm Dũng đi làm về mặt thuỗn ra như cái bơm. Hiền gạn hỏi thì Dũng bực bội nói, hôm nay xào nhầm một loại sốt cho khách quen, bị thằng chủ chửi là đồ đầu đất, nên bực bội khó chịu.
  
Hiền nghe nghe chồng kể, đứng nghiến răng trèo trẹo:  "Còn bà chúng nó chứ, đã thế mai anh báo nghĩ làm. Kiếm cái quán nào nho nhỏ vợ chồng mình tự kinh doanh, tự làm chủ khỏi phải bị con nào thằng nào đì cả". Dũng lưỡng lự "Em mới sinh, một mình anh sợ xoay xở không nổi, vả lại chúng mình đâu đủ vốn". Hiền tỉnh bơ "Vốn liếng khỏi lo, mình mở một cái nho nhỏ, thiếu bao nhiêu hú bạn bè giúp đỡ. Anh là đầu bếp xịn, em là bồi thứ thiệt, sợ đếch gì mà không làm". 
  
Chẳng hiểu vì sao vợ tên Hiền mà chẳng hiền tý nào, rất cương quyết, nói là làm, dũng khí ngất trời. Còn chồng tên Dũng, thì tính tình trầm lặng, hiền lành có phần như nhu nhược. Mọi sự quyết định lớn nhỏ gì trong gia đình cũng đều do Hiền quyết định.
  
Cũng nhờ cái cương quyết không chịu khuất phục thua kém ai, không muốn chồng mình đi làm thuê làm muốn bị người khác đì mà vợ chồng chúng nó có cái quán Asia Wok có tiếng tăm là làm ăn được ở cái xứ cảng này.
  
Hồi đầu mới mở quán. Nhà hàng chúng nó có một khách quen rất đặc biệt. Đó là một ông kỹ sư già về hưu. Ông già tên là Heiner, bọn Dũng Hiền thường gọi theo cách phát âm tiếng Việt là ông Hai.
  
Ông Heiner là khách quen thường xuyên của quán Wok, từ khi quán mới khai trương. Ông khách này có đặc điểm rất giống với một hiện tượng khách hàng mà tiếng Đức gọi nôm na là "Besondert Stamkunden" (khách quen đặc biệt).
   
 Loại khách quen này thường chỉ ngồi một chỗ nhất định, ăn uống một loại nhất định và đôi khi chỉ vào đúng một thời điểm nhất định nào đó trong ngày hoặc trong tuần mà thôi. 
  
Loại khách này nếu lúc vào nhà hàng, thấy chỗ mình thường ngồi đã có người ngồi, là họ bước ra khỏi nhà hàng ngay. Hoặc có nhiều khách quái đản hơn, nếu người phục vụ không để ý đến thói quen của họ để phục vụ, họ cũng rất dễ phật lòng bỏ đi. Ví dụ họ đã quen uống một thức uống gì đó trước lúc dùng bữa. Người phục phụ khi thấy họ, không cần phải hỏi họ dùng gì, cứ vậy mà bưng ra phục vụ. Nếu lỡ như vô tình hỏi họ như thói quen hỏi cách khách hàng khác, họ cũng phật lòng và lần khác sẽ không đến nữa.
  
Ông Heiner thuộc loại khách quen đặc biệt này. Vì hầu như ngày nào ông cũng đến quán Wok dùng bữa. Vì vậy mà Dũng Hiền luôn luôn đặt mảnh giấy "bàn đặt trước" lên cái chỗ mà ông thường ngồi để giữ chỗ cho ông.
  
Hồi đầu quán mới mở, Hiền chưa làm bồi được vì cái Phương lúc đó mới hơn một tuổi. Không làm bồi nhưng Hiền lúc nào cũng ở quán. Hiền là chăm lo quán xuyến tất cả mọi việc liên quan đến sổ sách giấy tờ, liên quan đến vấn đề kinh doanh và cả việc sắp xếp nhân sự. 
 
Gặp lúc khách đông vào giờ cao điểm, Hiền cũng tham gia làm việc như một "hậu vệ thòng". Lúc thì giúp ngoài, lúc thì giúp trong. Những khi đó cái Phương được đặt vào xe đẩy và để vào góc quán. 
  
Đôi khi có sự cố khách quá đông, trong ngoài đều bận tíu tít, cái Phương lại trọ trẹ khóc. Những khi đó ông Heiner từ một khách hàng đặc biệt trở thành người bảo mẫu bất đắc dĩ. Hoặc là ơ ơ ầu ầu rung rung cái xe đẩy cho cái Phương nín. Hoặc đôi khi ông phải đẩy xe ra đường khi cái Phương khóc to ảnh hưởng đến khách đang ăn.
  
Rồi dần dần từ từ ngày này qua tháng nọ, cho đến khi Hiền không thể nào chịu được cách làm việc thiếu trách nhiệm và ít nhạy bén của mấy người làm bồi. Hiền tự mình đứng ra đảm trách nhiệm vụ làm bồi chính luôn. Và cũng không biết từ lúc nào ông Heiner đã trở thành Opa (Người Ông) "bất đắc dĩ" của cái Phương nữa.
  
Ông Heiner sống độc thân, không có vợ con và có một căn hộ riêng gần quán nhà Dũng Hiền. Từ một khách hàng đặc biệt ông trở thành một thành viên gần như không thể thiếu trong cái "guồng máy " của quán Wok dưới sự điều hành của Hiền.
  
Cái chỗ ngồi luôn luôn dành cho ông vẫn lúc nào cũng đặt mảnh giấy "bàn đặt trước". Ông vẫn gọi thức ăn đồ uống như một khách hàng đặc biệt, vẫn thanh toán tiền đầy đủ không thiếu một xu. Chỉ khác hơn là ông không phải ăn xong rồi về, mà ăn xong và ở lại chăm nom và cùng chơi với cái Phương.
  
Cái Phương lớn dần lên, đi học mẫu giáo, học lớp 1, lớp 2, lớp 3 rồi cho đến lớp 5. Cái thế giới tuổi thơ của nó chính là một góc nhỏ trong quán Wok, nơi có chiếc bàn đơn đặt tấm giấy "bàn đặt" dành cho ông Heiner. Cái Phương gọi ông là Opa. Ông Heiner từng ngày từng ngày chứng kiến cái Phương lớn lên. 
  
Đã gần 10 năm trôi qua, cái Phương đã là một gái nhỏ. Dũng Hiền đã trở thành một cặp đôi "song kiếm hợp bích" nổi tiếng thành đạt trong làng ẩm thực Á châu vùng Bắc Đức. Ông Heiner ngày một già đi, khọm nọm thêm.
  
Dũng Hiền quá bận bịu với quán xá, nhiều lúc gần như khoán trắng việc chăm sóc cái Phương cho ông Heiner. Mọi sự liên quan đến học hành và giải trí của cái Phương từ nhỏ hầu như đều do ông trong coi. 
  
Cái Phương ngày một lớn, nó có bạn có bè có những nỗi đam mê khác, tuy nó vẫn luôn thân mật và kính trọng ông, nhưng khoảng cách ngày một xa, một xa ra.
  
Ông Heiner sau một cơn đột quị nhẹ, sức khoẻ yếu hẳn đi, ông bắt đầu đi đứng chậm chạp, tay chân bắt đầu run. Nhưng vẫn như xưa, ngày nào cũng như ngày nào, ông vẫn đến quán Wok dùng bữa ở đó, vẫn một chai bia, một bát súp Bắc Kinh, một dĩa Vịt chiên sốt chua ngọt hay sốt cay. 
  
Cái Phương không còn đến quán thường xuyên nữa, nó đã lớn. Nó đã tự biết chăm sóc mình. Nhưng ông Heiner thì vẫn cứ đến, vẫn cái chỗ ngồi đó như từ mười mấy năm về trước. Ông ngồi từ khi nhà hàng mới mở cửa cho đến khi đóng cửa. Hôm nào cái Phương có ghé nhà hàng thì ông vui, hôm nào cái Phương không ghé nhà hàng thì ông lại rười rượi đi về.
  
Ngày Hiền quyết định sửa sang lại nhà hàng, chuyển từ cách phục vụ bình thường sang cách phục vụ búp-phê. Cái chỗ ông Heiner thường ngồi trở thành nơi đặt dàn búp- phê. Ông Heiner phải chuyển chỗ ngồi ra gần ngoài của để tránh cản trở khách hàng. Ông rất buồn, nhưng cũng đành chịu, và cũng không vì thế mà không đến thường xuyên nữa. Ông vẫn đến và gần như ngồi "đóng đinh" tại vị trí mới dành cho ông. Một bữa ăn, nhâm nhi vài chai bia, một ngày như mọi ngày của ông đều trôi qua nơi quán Wok như vậy. Niềm vui duy nhất của ông chính là mỗi khi có tiếng ríu rít của cái Phương.
  
Làm quán có thời có vụ, nhằm khi có khách thì không sao. Gặp khi vắng khách, Hiền thấy dáng ông Heiner ngồi bất động nơi chiếc bàn gần cửa ra vào thì nhấm nhảy cằn nhằn vớ Dũng là do ông Heiner ngồi ám. Nhiều khi Hiền đá bàn đá ghế, xô cái này đẩy cái kia. Có lúc lại lấy tờ báo châm lửa huờ huờ quanh chỗ ông ngồi coi như đốt phong long. Ông Heiner không để ý đến thái độ của Hiền có ý đuổi khách. Ông vẫn ngồi đợi, biết đâu cái Phương ghé lại.
 
Vào năm có Word Cup tại Đức, dân tình ngồi nhà xem đá bóng, ít ai đi ăn quán. Quán Wok vắng như chùa Bà Đanh. Hiền quyết định bắt Dũng đuổi ông Heiner đi. Dũng ngại không dám nói, vì dẫu sao ông Heiner cũng gắn bó với quán, với cái Phương hơn cả 10 năm nay. Hai vợ chồng cứ đùn đẩy nhau không ai đủ nhẫn tâm để nói với ông điều bất tiện, khi ngày nào ông cũng đến ám từ trưa đến tối như vậy. 
 
Cuối cùng Hiền đành phải nhờ cái Phương nói. Chờ một dịp cái Phương ghé lại quán, Hiền nói với Phương điều mong muốn đó. Cái Phương nói, Opa ngồi đó đâu có sao, đâu có ảnh hưởng gì khách của Mẹ đêu. Hiền nói nhưng ông ngồi đó suốt ngày, lại ngay cửa ra vào, mà dạo này ông ốm yếu, ít tắm rửa nên có mùi hôi, ông ngồi đó từ ngày này qua tháng nọ có khác gì ám khách đâu. Cái Phương gân cổ lên cãi, nhưng mà Opa là khách hàng, Opa ăn uống trả tiền hẳn hoi, Mẹ không có quyền đuổi Opa đi. Hiền năn nỉ con, không phải vấn đề trả tiền hay không trả, mà vấn đề tâm linh của nơi làm ăn, quán xá mà có một người như vậy ám quanh năm suốt tháng là không ngóc đầu lên được đâu.
  
Cái Phương ngân ngấn nước mắt đến nói với ông Heiner : "Mẹ nói, Opa đừng ngồi đây nữa, Opa ngồi đây hoài nên quán không có khách, Opa về đi"
  
Thoạt đầu ông Heiner chưa hiểu chuyện gì, khi nhìn thấy khuôn mặt lạnh tanh của Hiền, ông mới chợt hiểu ra. Ông luống cuống đứng dậy, run run xuýt nữa té. Ông cúi gập người xuống hai tay chắp trước ngực, gật đều lia lịa, kiểu như người Thái Lan hay người Hàn Quốc tỏ thái độ có lỗi vậy. Ông gật gật đầu nước mắt lưng tròng nhìn cái Phương, miệng lắp bắp líu ríu nói lời xin lỗi liên tục và từ đi giật lùi ra cửa.
  
Cái Phương nhìn dáng ông lầm lũi đi qua đường khóc òa lên quay lại nhìn Mẹ trách móc. Dũng cũng rơm rớm nước mắt dang nắm đấm, đấm một phát vào tường bật cả máu. Hiền đưa tay lên ôm ngực nhìn chồng và con nói: "Tôi cũng đau lòng lắm, nhưng không thể nào làm khác được, vì cứ để ông ngồi đó, thì ám quẻ lắm".
  
Từ ngày đó ông Heiner không ghé quán Wok nữa. Không ghé nhưng ông vẫn đi ngang qua quán Wok, đến một quán bia đối diện bên kia đường ngồi uống. Ông chọn một chỗ ngồi quay sang hướng quán Wok. Ông vẫn luôn ngồi bất động như vậy, trước chai bia uống dở. Ánh mắt vô hồn nhìn sang quán Wok. Chỉ khi nào ông thấy có thấp thoáng có bóng cái Phương ở đó thì khuôn mặt ông mới sáng rạng lên chút sinh khí.
  
Và cũng như hồi ở quán Wok, ông trở thành người khách đặc biệt, có chỗ ngồi đặc biệt dành cho Stamkunden (Khách Quen).
  
Đã mấy năm trôi qua như vậy, ông không hề ghé lại quán Wok. Có những lúc vô tình Dũng thấy ông đi ngang qua quán, Dũng muốn mời ông vào, nhưng Hiền cản lại. Hiền nói mời ông vào, biết đâu ông lại ngồi lì như ngày xưa thì sao. Dũng im lặng không nói gì lẳng lặng bỏ vào bếp. 
 
Cái Phương thì rất ít khi gặp lại ông, chỉ đôi khi tình cờ gặp ông trước lễ Noel, trước dịp năm mới, trước ngày sinh nhật của Phương thôi. Mỗi lần gặp như vậy ông đều nói rất vui khi tình cờ gặp lại cháu. Là tình cờ gặp nhưng khi nào ông cũng có sẳn một món quà rất quí giá đưa cho Phương nhân dịp gì đó.
  
Bẳng đi một thời gian khá lâu, Dũng Hiền và cái Phương không gặp ông, cũng không thấy ông ngồi ở quán bên kia. Sau này có lần gặp lại, Dũng Hiền hỏi ra mới biết ông bị bệnh phải nằm nhà thương, và khi ra viện ông đã chuyển chỗ ở vào viện dưỡng lão ở ngoại ô, nên ít có dịp ghé lại Altona.
  
Biết thế nên sau này không thấy ông xuất hiện nữa, nhưng Dũng Hiền cũng không còn lấy làm lạ.
  
Cho đến ngày sinh nhật cái Phương tròn 16 tuổi. Có một nữ Luật sư mang theo một bó hoa có 16 cành bách hợp rực rỡ và toàn bộ hồ sơ giấy tờ về quyền thừa kế hợp lệ một căn nhà nghĩ mát bên cạnh dòng sông Elbe phía tọa lạc về phía Đông của cảng Hamburg cho cái Phương. Người để lại căn nhà nghĩ có giá trị như một mơ ước này cho cái Phương là ông Heiner. 
  
Bà luật sư nói, trước khi ông Heiner về ở viện dưỡng lão. Ông đã bán căn hộ của ông trong phố Altona và mua căn hộ nghĩ mát nho nhỏ này, với mong muốn để lại như một món của hồi môn cho người cháu gái thân thiết nhất của ông là cái Phương. Bà còn nói, trong lúc làm thủ tục thừa kế, ông Heiner nói, sở dĩ ông mua căn hộ này cho Phương là vì ngày xưa khi cái Phương còn bé, ông thường dắt nó đi dạo dọc bờ cảng, cái Phương thường nói với ông nó mơ ước được ở trong một căn nhà bên bờ sông, để đêm đêm được nghe tiếng sóng vỗ.
  
Mấy tháng sau khi cái Phương nhận quyền thừa kế căn hộ bên sông. Hiền giao lại toàn bộ việc kinh doanh quán xá lại cho Dũng, và xin đi học nghề  Altepfleger (Nghề chăm sóc người già, một nghề thuộc hệ thống bảo hiểm xã hội của Đức). Và nay đã trở thành một nhân viên nơi viện dưỡng lão mà hồi trước ông Heiner sống ở đó.
  
Hiền xin với con cho phép mình được sử dụng căn hộ ven sông cho đến khi Phương học hành ra nghề và lấy chồng. Hiền biến căn hộ ven sông thành một căn nhà nghĩ để cho thuê. 
  
Giá thuê căn nhà nghĩ ven sông Elbe của Hiền cực rẻ, rẻ gần như chỉ thu cho có lệ. Mặc dù những khu nhà nghĩ vên sông Elbe vốn là những địa điểm "hót" trong các kỳ nghĩ của khách vãng lai. Duy chỉ có điều kiện cho thuê hơi khác thường. Người thuê phải là người già trên 70 tuổi, và ưu tiên cho các cụ già độc thân.
  
Hôm tôi có việc vào Viện dưỡng lão. Tôi có gặp Hiền ở đó, tôi hỏi, có phải cô ân hận chuyện ngày xưa đuổi ông Heiner ra khỏi quán, nên mới bỏ nghề kinh doanh đếm tiền để đi làm công việc mang đậm tính nhân đạo này không. Hiền trả lời, không! nếu như quay lại ngày xưa, thì vì công việc kinh doanh em vẫn làm thế, em bỏ nghề nhà hàng để trở thành nhân viên chăm sóc người già là vì qua sự việc ấy, em mới thấu cảm được sự cô đơn cùng tột của những người già ở bên này....
  
14.02.11
TN