Tuesday, February 8, 2011

Đầu xuân đọc thơ Đồng Đức Bốn

Nhà thơ Đồng Đức Bốn sinh tại Hải Phòng, tháng 3 năm 1948. Ông là ai và thơ ông ra sao thì chưa có cuốn sách giáo khoa nào đề cập đến cả, nhưng những sáng tác của ông người ta chỉ cần đọc 1 lần là nhớ mãi. Nguyễn Huy Thiệp vinh danh ông là nhà thơ lục bát kỳ tài của Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, khoảng chục sáng tác của ông là tài tử vô địch, còn phần nhiều lại chẳng ra gì! Còn Nguyễn Khoa Điềm lại khái quát chân dung ông qua đôi câu thơ trong bài “Bạn thơ”:

Bạn chừ đóng gạch nơi nao
Văn chương lấm láp vêu vao mặt người

 

 
Đồng Đức Bốn có in vài tập thơ, nhưng có lẽ nổi tiếng nhất là tập “Chăn trâu đốt lửa” (1993):

Chăn trâu đốt lửa trên đồng
Rạ rơm thì ít, gió đông thì nhiều
Mải mê đuổi một con diều
Củ khoai nướng để cả chiều thành tro.

Chiều nay Hồ Tây có giông
Tôi ngồi trên sóng mà không thấy chìm.

Còn đây là lời tựa của Nguyễn Huy Thiệp cho tập thơ thuần lục bát này khi nó được in 

Tôi đã có lúc cho thơ là mẹ của mọi thể loại văn học, thậm chí là mẹ của mọi hình thức sáng tạo (của chính trị, của toán, của kiến trúc, của nấu ăn, của hội họa, của mốt…. Người nào không thơ khác nào một kẻ mồ côi: Mồ côi mẹ liếm lá đầu đường.

Con người vô ơn (con người bao giờ cũng vô ơn) thường rất bạc với mẹ. Có ai ghi nhớ việc mẹ sinh hạ, mẹ bú mớm, mẹ giặt giũ, mẹ đính cho chiếc khuy trên áo… Thơ thường không bao giờ là một sự nghiệp. Mẹ không bao giờ là một sự nghiệp của con.
Thơ là một thể loại văn học cổ điển nhất, xưa nhất. Thơ hình như khó nhất trong các thể loại văn học. Về hình thức, có lẽ thơ là một thể loại loạn luân nhất.

Có mấy loại người làm thơ?

Loại một chắc chắn là các thiên thần. Họ vụt đến, vụt đi và để lại những bài thơ, những câu thơ thiên thần. Nhưng chưa chi chiều đã tắt. Trong đời mỗi người cũng có những giai đoạn, những khoảnh khắc thiên thần. Đấy là những người thơ trẻ trung, những trai tân. (Vậy sao không phải gái tân? Gái tân thì thơ làm gì? Đừng lầm với vật hiến tế!). Khi ấy những bài thơ, những câu thơ hiện lên như những bổng lộc của thần linh.

Loại hai là thơ của những người khởi nghĩa, của lửa, của những nhà cách mạng xã hội!Bay thẳng tới muôn trùng Tiêu Hán / Phá vòng vây bạn với Kim ô / Giang sơn khách diệc tri hồ (Nguyễn Hữu Cầu). Khởi nghĩa với cả tình yêu, với đàn bà, với cái ác, cái tẻ nhạt, cái tầm thường, cái dung tục… với khá nhiều thứ – để biểu dương cái chí: thi ngôn chí (Tú Xương là thi ngôn chí: chí thanh cao, Nguyễn Bính là thi ngôn chí: chí tình).

Ngoài loại một, loại hai là gì? Là loại ba: là phản thơ, là vi khuẩn, là mầm thơ, là những tìm tòi – đa phần viển vông, suy đồi, điếm đàng, đểu, say rượu, đa dâm, hạ lưu.
Vượt lên trên là triết học, vượt lên thơ là triết học. Tư tưởng là thơ bay lên.

Đồng Đức Bốn là ai? Đồng Đức Bốn là một nhà thơ loại hai theo cách phân loại như trên. Tiếc thay, anh không phải thiên thần, anh chỉ là một người khởi nghĩa. Anh là một tên nửa quê nửa tỉnh cao tuổi. Anh là một người có những tình cảm ngẩn ngơ, ngây ngất, dại khờ.
Đồng Đức Bốn là một kẻ chí tình.
Thơ Đồng Đức Bốn cũng hay.

Dưới đây xin trích đăng một vài bài thơ của ông sưu tầm từ nhiều nguồn khác nhau:

Vào chùa
Đang trưa ăn mày vào chùa
Sư ra cho một lá bùa rồi đi
Lá bùa chẳng biết làm gì
Ăn mày nhét túi lại đi ăn mày.

Quốc kêu
Tôi nghe nẫu cả những chiều
Câu thơ ngã xuống đổ xiêu mái chùa

Đời tôi
Vớt buồn trên mặt sông trôi
Bây giờ vẫn chỉ mình tôi giữa dòng

Chợ buồn
Chợ buồn đem bán những vui
Đã mua được cái ngậm ngùi chưa em.
Chợ buồn bán nhớ cho quên
Bán mưa cho nắng, bán đêm cho ngày.

 

Chợ buồn bán tỉnh cho say
Bán thương suốt một đời này cho yêu.
Tôi giờ xa cách bao nhiêu
Đem thơ đổi lấy những chiều tương tư.

Sông Thương ngày không em
Không em ra ngõ kéo diều
Nào ngờ đuợc mảnh trăng chiều trên tay,
Luồn kim vào nhớ để may
Chỉ yêu cứ đứt trên tay mình cầm.

Sông Thương như gỗ hóa trầm
Mùi hương để vết tím bầm trên da.
Sông thương từ buổi em xa
Tay anh quờ xuống hóa ra bị chàm.

Em đi như chim về ngàn
Để rơi một cánh hoa tan nát chiều.
Tôi đi tìm một tình yêu
Trên dòng sống chứa rất nhiều ban mai.

Tôi đi trên dòng song gai
Lốt chân chim đậu trên vai thành hồ.
Không em từ bấy đến giờ
Bàn tay vẫn héo như cờ chịu tang.

Cầu gẫy mới phải đi đò
Cầu gẫy mới phải đi đò
Thế nên gặp gió thổi cho rét lòng.
Con đò nửa mặt trăng cong
Chênh vênh trên một dòng sông lở bồi.

Mái chèo cứ nhẹ thế thôi
Không là đứt ruột gan tôi bây giờ.
Mái chèo trên song làm thơ
Đỡ cho cánh vạc bơ vơ xuống dòng.

Chốc nữa thế nào cũng giông
Sang đò tôi đén giữa đồng là mưa.

Còn đây là nông thôn trong mắt ông, vừa giống mà vừa khác nông thôn Việt Nam trong con mắt của Nguyễn Bính:

Nhà quê có cái giếng đình
Trúc xinh cứ đứng một mình lẳng lơ
Nhà quê có mấy trai tơ
Quần bò mũ cối giả vờ sang chơi.

Nhà quê chân lấm tay bùn
Mẹ đi cấy lúa rét run thân già
Chợ làng mở dưới gốc đa
Nhà quê có mấy con gà bán chơi.

Và đây là những suy ngẫm của ông về cuộc đời:

Cầm lòng bán cái vàng đi
Để mua những cái nhiều khi không vàng.

Sống gần tới phút chia tay
Tỉnh ra mới thấy đời này rỗng không.

Chín xu đổi lấy một hào
Chín xu đổi lấy một hào
Đi mua cái nắng lại vào cái mưa
Đường bùn tôi lội giữa trưa
Đắng cay thì ngậm xót chua thì cầm

Con sáo sang sông
Tẽn tò con sáo sang sông
Bờ bên này tưởng cũng không có gì.
Tẽn tò con sáo bay đi
Lại bờ bên ấy có gì cũng không…

Lại có đôi khi thơ ông là sự nhẩn nha bình thản lạ thường, đọc vào đơn giản mà thú vị 

Chân đạp đất đầu đội trời,
Khổ câu thơ cứ đến rồi lại đi..

Xong rồi chả biết đi đâu
Xích-lô Bà Triệu ra cầu Chương Dương!

Người viết bài mê nhất đôi câu thơ của ông trong bài “Trở về với mẹ ta thôi”, coi nó là cái gốc cho sự dân dã mà thần tình của những vần thơ lục bát ông đã viết:
Bao nhiêu là thứ bùa mê
Vẫn không bằng được nhà quê của mình.

Bác Thiệp viết về ông là 1 người đọc không nhiều sách, không chịu học hành, đôi khi bừa bãi ngông cuồng, lại không biết viết (anh thường làm thơ trong đầu rồi đọc cho người khác chép), vốn từ vựng có lẽ chỉ ngót nghét có 600 từ, nghe quả là khó tin! Ông mất tại Hải Phòng năm 2006, hưởng thọ 58 tuổi. Những ai mê thơ ông vẫn luôn cảm ơn ông – một truyền nhân của thơ lục bát và ca dao – và cảm ơn thơ ông bởi những giác ngộ thâm trầm ẩn sau lớp vỏ giản dị thuần khiết của ngôn từ.

No comments:

Post a Comment