Tháp Rùa xét về lịch sử thì không có gì vẻ vang, không có giá trị kiến trúc nhưng đã trở thành một biểu trưng của hồ Gươm và hơn thế, của cả Hà Nội.
Tháp Rùa xây trên gò Rùa. Gò chỉ cao hơn mặt nước hồ mùa cạn khoảng 0,6 mét, song theo luật phong thủy cổ “cao nhất thốn giả vi sơn” nên ngày trước các cụ gọi gò này là núi Rùa (Quy Sơn). Gò hình gần tròn, đường kính chiều đông – tây là 18 mét, chiều bắc – nam là 24 mét, như vậy diện tích khoảng 350 mét vuông. Trên có tháp Rùa, được xây theo hình chữ nhật, chiều dài quay nhìn ra phía đông – tây, chiều rộng nhìn ra hướng bắc nam. Tháp có ba tầng và một đỉnh.
Tầng một xây trên móng cao 0,8 mét. Hình chữ nhật, chiều dài 6,28 mét, chiều rộng 4,54 mét. Chiều dài mỗi mặt mở ba cửa, chiều ngang mỗi mặt mở hai cửa, cả thảy có mười cửa, cửa có đỉnh nhọn như các cửa các nhà thờ Ki–tô giáo. Bên trong tầng này phân ra ba gian, các gian thông với nhau bằng các cửa ngăn, đỉnh cũng nhọn như tất cả các cửa khác. Có 4 cửa ngăn, như vậy tầng một có cả thảy 14 cửa.
Tầng hai xây lùi vào một chút, chiều dài 4,8 mét, chiều rộng 3,64 mét, cũng chia ra ba gian, kiến trúc y như tầng một, cũng 14 bộ cửa, chỉ có nhỏ hơn một ít.
Tầng ba thu nhỏ hơn nữa, dài 2,97 mét, rộng 1,9 mét, chỉ mở một cửa hình tròn ở mặt phía đông, đường kính 0,68 mét. Sát tường phía tây có một ban thờ, không rõ thờ ai và có từ lúc nào !
Tầng đỉnh chỉ như một vọng lâu, vuông vức, mỗi bề 2 mét. Trên tường mặt phía đông, bên trên cửa sổ hình tròn của tầng ba, có ba chữ “Quy Sơn tháp” tức tháp Núi Rùa.
Tổng cộng tính từ nền đất gò Rùa lên tới đỉnh tháp là 8,8 mét.
Không có sách cổ nào ghi chép về lai lịch của gò. Chỉ có lai lịch ngọn tháp thì mới được một số sách để cập tới. Đa số đều đề cập đến nội dung như sau :
Tháp Rùa ở trên gò Rùa, giữa hồ Hoàn Kiếm. Gò Rùa là nơi chúa Trịnh đã cho dựng Tả Vọng đình làm nơi hóng gió về mùa hè. Năm 1884, Bá hộ Kim, một tên đại phú, tay sai của thực dân Pháp, chạy chọt để được sử dụng gò Rùa với mục đích là đem chôn hài cốt của bố mẹ hắn vì cho đây là nơi đất tốt theo thuật phong thủy. Để lừa bịp dư luận, hắn nói trệch là là xây dựng ở gò một ngọn tháp để làm “hậu chẩm” cho chùa Báo Ân lúc đó chưa bị Pháp phá.
Hắn lấy thế bọn thực dân và bọn Việt gian Nguyễn Hữu Đô, được phép xây dựng ngôi tháp đó nhưng phải để nguyên Tả Vọng đình, chỉ được đào móng xây thêm cho vững chắc và xây các tầng tháp mới lên trên. Ngay đêm hôm đào móng, y cùng một số tay chân ngầm đem hài cốt bố mẹ ra chôn xuống giữa gò. Nhưng một bàn tay bí mật đã đào hài cốt của bố mẹ hắn vứt xuống hồ, chỉ còn trơ lại trên đó hai cái quách rỗng. Bá Kim đã trót hứa với quan trên, cho nên vẫn phải tiếp tục công việc xây dựng.
Nội dung trên đã được cụ Doãn Kế Thiện ghi trong sách Cổ tích và thắng cảnh Hà Nội – NXB Văn Hóa – 1959, ghi lại theo truyền thuyết dân gian. Vì là truyền thuyết nên không ít chi tiết không được chính xác. Như bảo rằng Bá hộ Kim xây tháp để làm hậu chẩm, tức là cái gối sau cho chùa Báo Ân là sai. Bởi lẽ chùa này nhìn ra hồ, quay lưng về phía đê sông Hồng. Cho nên nếu theo thuật phong thủy, chùa cần có gối thì gối lên đê hay một cái gò nào ở phía đông. Còn gò Rùa thì trước mặt chùa, chỉ có thể làm minh đường, làm án mà thôi. Nếu nói theo thuật phong thủy thì gò Rùa hình tròn, như vậy chỉ có thể là “Kim tinh tác án” (sao Kim làm án), chứ không thể là “hậu chẩm” được ([1]). Tháp được xây năm 1877 thì lúc đó chưa có Nguyễn Hữu Đô và bọn quan Tây. Lúc đó, ông Đô đang là Biện lý bộ Lại ở triều đình Huế, và Hà Nội khi đó vẫn còn thuộc về ta; Tây chưa chiếm, chúng mới chỉ có một khu Lãnh sự ở bờ sông Hồng.
Theo các tài liệu của người Pháp để lại, có thể xác định được tháp được xây vào năm 1877. Trên tháp xưa có sơn chữ “Vinh bao”, “Vong dinh” và “Quy sơn thap” và tháp được xây bởi Bá hộ Kim.
Xin nói qua về gia thế nhân vật này. Bác sĩ Nguyễn Thìn, một bác sĩ đầu ngành sản khoa của bệnh viện C Hà Nội, là cháu năm đời ông Kim thuộc chi trưởng, cho xem gia phả của chi trưởng. Bà Tô Bích Phượng là cháu dâu bốn đời ông Kim, cũng thuộc chi trưởng nhưng có bản sao lục gia phả của chi thứ năm. Hai bản này chép giống nhau như sau :
Ông Nguyễn Hữu Kim (1832 – 1901) có tên khác là Liên, hiệu Chu Ái. Ông có năm con trai và ba con gái. Con trưởng là ông Nguyễn Hữu Tiến, con thứ năm là ông Nguyễn Ngọc Toản. Bác sĩ Nguyễn Thìn là cháu bốn đời ông Tiến, tức là chút của ông Bá Kim. Ông Toản (1880 – 1936) có ba bà vợ, một bà họ Đàm quê ở làng Hương Mặc (làng Me) thuộc phủ Từ Sơn
bên Bắc Ninh, sinh hạ bốn người con trai; đầu là Nguyễn Ngọc Vũ (1908 – 1932). Ông Vũ từng là Bí thư Thành ủy chính thức đầu tiên của đảng bộ Hà Nội (đảng Cộng sản Đông Dương) và hy sinh trong nhà từ Hỏa Lò năm 1932 (Thành ủy Hà Nội đã chính thức công nhận). Như vậy, ông Vũ là cháu nội ông Bá Kim.
Ông Bá Kim là một hào mục làng Cựu Lâu (khu vực Tràng Tiền, Hàng Khay ngày nay) được hàm Bá hộ (hàm thấp nhất trong quan chế, thường là cửu phẩm hoặc bát phẩm là cùng). Ông có một cửa hàng bán hàng khảm mang tên Vĩnh Bảo. Do có dự cộng tác với người Pháp trong những ngày đầu chúng chiếm đóng Hà Nội, nên ông Kim sau được phong là Tri phủ Thường Tín rồi Thương biện phủ Hoài Đức nên dân gọi ông là Thương Kim. Tuy ông giúp việc cho thực dân song cô con gái lại tham gia phong trào chống Pháp. Vì lẽ vậy mà ông bị Pháp nghi kỵ nên cách chức rồi quản thúc.
Theo lời kể trong gia đình, thì cô con gái tham gia chống Pháp là bà Khuê. Và trong tiểu thuyết lịch sử Bóng nước hồ Gươm, nhà văn Chu Thiên đã dùng bà làm nguyên mẫu, để xây dựng nhân vật “cô Xuyến” đáng mến.
Có lẽ cũng nên biết thêm về hành trạng của ông Kim theo lời kể của một “người trong cuộc” trong thời kỳ cụ Hoàng Diệu kháng Pháp (1882). Đó là ông Cử Tốn, tức Võ Cử nhân Nguyễn Đình Tốn (còn có tên là Trọng), khi đó là suất đội hộ vệ Tổng đốc Hoàng Diệu. Trên tạp chí Tri Tân số 183, ra ngày 21/4/1945, ông Nguyễn Tường Phương có phỏng vấn ông Cử Tốn, khi đó đã ngoài 90 tuổi song vẫn còn minh mẫn. Ông kể về hoàn cảnh Hoàng Diệu tuẫn tiết sau khi quân Pháp đã hạ được thành như sau : “Quan Tổng đốc mới lên voi chạy vào Hành cung. Vào sân rồng lạy năm lạy, vừa lạy vừa khóc rồi quay ra. Lúc ấy ngài chít khăn xanh, mặc áo the thâm, thắt lưng nhiễu điều, tay cầm kiếm. Ngài đến cửa Võ miếu. Xuống voi đi vào, có mười võ cử suất đội đi theo.
Đến đấy ngài đuổi cả về, và bảo rằng : “Ai muốn về Huế thì về; ai muốn đánh thì theo quân thứ Sơn Tây”. Nói xong, ngài vào Võ miếu đóng sập cửa lại, cởi khăn chít lên cây táo mà tự vẫn.
Khi thành đã bị phá xong, trong hàng phố được tin quan Tổng đốc tuẫn tiết, rất thương xót. Ông Thương Kim, một thân hào, cùng dân hàng phố góp tiền mua áo quan đem chôn ở gần miếu Trung Liệt. Rồi sau lại di ra dinh quan Đốc học”.
Như vậy là ông Thương Kim (chính ra phải nói là Bá Kim vì khi đó ông chưa là Thương biện), là người đứng ra tổ chức chôn cất cho cụ Hoàng Diệu. Nên nhớ là lúc đó, các quan lại cao cấp kế cận Hoàng Diệu kẻ thì trốn trong Hành cung, nhịn đói ba ngày rồi ra hàng Pháp như Tuần phủ Hoàng Hữu Xứng, kẻ thì trốn lên Sơn Tây như Bố chính Phan Văn Tuyến, kẻ thì mưu tính ra ôm chân Pháp như Án sát Tôn Thất Bá, chẳng ai nghĩ đến việc mai táng cụ Hoàng Diệu. Việc một ông Bá hộ đứng ra tổ chức chôn cất cụ Hoàng Diệu có một ý nghĩa nhất định.
Hiện nay, khu vực số nhà 29 phố Hai Bà Trưng – Hà Nội, là dinh cơ cũ và là ngôi nhà thờ đại tôn của họ ông. Những ngày giỗ chạp lớn, cả năm chi đều về đây dâng lễ.
Về chuyện tháp Rùa, việc cho là ông Bá Kim xây dựng để táng hài cốt song thân thì không có một tài liệu thành văn nào, chỉ là truyền thuyết dân gian. Vậy hãy cứ coi là truyền thuyết chứ chưa thể coi là sự thật lịch sử.
Tháp Rùa xây trên gò Rùa. Gò chỉ cao hơn mặt nước hồ mùa cạn khoảng 0,6 mét, song theo luật phong thủy cổ “cao nhất thốn giả vi sơn” nên ngày trước các cụ gọi gò này là núi Rùa (Quy Sơn). Gò hình gần tròn, đường kính chiều đông – tây là 18 mét, chiều bắc – nam là 24 mét, như vậy diện tích khoảng 350 mét vuông. Trên có tháp Rùa, được xây theo hình chữ nhật, chiều dài quay nhìn ra phía đông – tây, chiều rộng nhìn ra hướng bắc nam. Tháp có ba tầng và một đỉnh.
Tầng một xây trên móng cao 0,8 mét. Hình chữ nhật, chiều dài 6,28 mét, chiều rộng 4,54 mét. Chiều dài mỗi mặt mở ba cửa, chiều ngang mỗi mặt mở hai cửa, cả thảy có mười cửa, cửa có đỉnh nhọn như các cửa các nhà thờ Ki–tô giáo. Bên trong tầng này phân ra ba gian, các gian thông với nhau bằng các cửa ngăn, đỉnh cũng nhọn như tất cả các cửa khác. Có 4 cửa ngăn, như vậy tầng một có cả thảy 14 cửa.
Tầng hai xây lùi vào một chút, chiều dài 4,8 mét, chiều rộng 3,64 mét, cũng chia ra ba gian, kiến trúc y như tầng một, cũng 14 bộ cửa, chỉ có nhỏ hơn một ít.
Tầng ba thu nhỏ hơn nữa, dài 2,97 mét, rộng 1,9 mét, chỉ mở một cửa hình tròn ở mặt phía đông, đường kính 0,68 mét. Sát tường phía tây có một ban thờ, không rõ thờ ai và có từ lúc nào !
Tầng đỉnh chỉ như một vọng lâu, vuông vức, mỗi bề 2 mét. Trên tường mặt phía đông, bên trên cửa sổ hình tròn của tầng ba, có ba chữ “Quy Sơn tháp” tức tháp Núi Rùa.
Tổng cộng tính từ nền đất gò Rùa lên tới đỉnh tháp là 8,8 mét.
Không có sách cổ nào ghi chép về lai lịch của gò. Chỉ có lai lịch ngọn tháp thì mới được một số sách để cập tới. Đa số đều đề cập đến nội dung như sau :
Tháp Rùa ở trên gò Rùa, giữa hồ Hoàn Kiếm. Gò Rùa là nơi chúa Trịnh đã cho dựng Tả Vọng đình làm nơi hóng gió về mùa hè. Năm 1884, Bá hộ Kim, một tên đại phú, tay sai của thực dân Pháp, chạy chọt để được sử dụng gò Rùa với mục đích là đem chôn hài cốt của bố mẹ hắn vì cho đây là nơi đất tốt theo thuật phong thủy. Để lừa bịp dư luận, hắn nói trệch là là xây dựng ở gò một ngọn tháp để làm “hậu chẩm” cho chùa Báo Ân lúc đó chưa bị Pháp phá.
Hắn lấy thế bọn thực dân và bọn Việt gian Nguyễn Hữu Đô, được phép xây dựng ngôi tháp đó nhưng phải để nguyên Tả Vọng đình, chỉ được đào móng xây thêm cho vững chắc và xây các tầng tháp mới lên trên. Ngay đêm hôm đào móng, y cùng một số tay chân ngầm đem hài cốt bố mẹ ra chôn xuống giữa gò. Nhưng một bàn tay bí mật đã đào hài cốt của bố mẹ hắn vứt xuống hồ, chỉ còn trơ lại trên đó hai cái quách rỗng. Bá Kim đã trót hứa với quan trên, cho nên vẫn phải tiếp tục công việc xây dựng.
Nội dung trên đã được cụ Doãn Kế Thiện ghi trong sách Cổ tích và thắng cảnh Hà Nội – NXB Văn Hóa – 1959, ghi lại theo truyền thuyết dân gian. Vì là truyền thuyết nên không ít chi tiết không được chính xác. Như bảo rằng Bá hộ Kim xây tháp để làm hậu chẩm, tức là cái gối sau cho chùa Báo Ân là sai. Bởi lẽ chùa này nhìn ra hồ, quay lưng về phía đê sông Hồng. Cho nên nếu theo thuật phong thủy, chùa cần có gối thì gối lên đê hay một cái gò nào ở phía đông. Còn gò Rùa thì trước mặt chùa, chỉ có thể làm minh đường, làm án mà thôi. Nếu nói theo thuật phong thủy thì gò Rùa hình tròn, như vậy chỉ có thể là “Kim tinh tác án” (sao Kim làm án), chứ không thể là “hậu chẩm” được ([1]). Tháp được xây năm 1877 thì lúc đó chưa có Nguyễn Hữu Đô và bọn quan Tây. Lúc đó, ông Đô đang là Biện lý bộ Lại ở triều đình Huế, và Hà Nội khi đó vẫn còn thuộc về ta; Tây chưa chiếm, chúng mới chỉ có một khu Lãnh sự ở bờ sông Hồng.
Theo các tài liệu của người Pháp để lại, có thể xác định được tháp được xây vào năm 1877. Trên tháp xưa có sơn chữ “Vinh bao”, “Vong dinh” và “Quy sơn thap” và tháp được xây bởi Bá hộ Kim.
Xin nói qua về gia thế nhân vật này. Bác sĩ Nguyễn Thìn, một bác sĩ đầu ngành sản khoa của bệnh viện C Hà Nội, là cháu năm đời ông Kim thuộc chi trưởng, cho xem gia phả của chi trưởng. Bà Tô Bích Phượng là cháu dâu bốn đời ông Kim, cũng thuộc chi trưởng nhưng có bản sao lục gia phả của chi thứ năm. Hai bản này chép giống nhau như sau :
Ông Nguyễn Hữu Kim (1832 – 1901) có tên khác là Liên, hiệu Chu Ái. Ông có năm con trai và ba con gái. Con trưởng là ông Nguyễn Hữu Tiến, con thứ năm là ông Nguyễn Ngọc Toản. Bác sĩ Nguyễn Thìn là cháu bốn đời ông Tiến, tức là chút của ông Bá Kim. Ông Toản (1880 – 1936) có ba bà vợ, một bà họ Đàm quê ở làng Hương Mặc (làng Me) thuộc phủ Từ Sơn
bên Bắc Ninh, sinh hạ bốn người con trai; đầu là Nguyễn Ngọc Vũ (1908 – 1932). Ông Vũ từng là Bí thư Thành ủy chính thức đầu tiên của đảng bộ Hà Nội (đảng Cộng sản Đông Dương) và hy sinh trong nhà từ Hỏa Lò năm 1932 (Thành ủy Hà Nội đã chính thức công nhận). Như vậy, ông Vũ là cháu nội ông Bá Kim.
Ông Bá Kim là một hào mục làng Cựu Lâu (khu vực Tràng Tiền, Hàng Khay ngày nay) được hàm Bá hộ (hàm thấp nhất trong quan chế, thường là cửu phẩm hoặc bát phẩm là cùng). Ông có một cửa hàng bán hàng khảm mang tên Vĩnh Bảo. Do có dự cộng tác với người Pháp trong những ngày đầu chúng chiếm đóng Hà Nội, nên ông Kim sau được phong là Tri phủ Thường Tín rồi Thương biện phủ Hoài Đức nên dân gọi ông là Thương Kim. Tuy ông giúp việc cho thực dân song cô con gái lại tham gia phong trào chống Pháp. Vì lẽ vậy mà ông bị Pháp nghi kỵ nên cách chức rồi quản thúc.
Theo lời kể trong gia đình, thì cô con gái tham gia chống Pháp là bà Khuê. Và trong tiểu thuyết lịch sử Bóng nước hồ Gươm, nhà văn Chu Thiên đã dùng bà làm nguyên mẫu, để xây dựng nhân vật “cô Xuyến” đáng mến.
Có lẽ cũng nên biết thêm về hành trạng của ông Kim theo lời kể của một “người trong cuộc” trong thời kỳ cụ Hoàng Diệu kháng Pháp (1882). Đó là ông Cử Tốn, tức Võ Cử nhân Nguyễn Đình Tốn (còn có tên là Trọng), khi đó là suất đội hộ vệ Tổng đốc Hoàng Diệu. Trên tạp chí Tri Tân số 183, ra ngày 21/4/1945, ông Nguyễn Tường Phương có phỏng vấn ông Cử Tốn, khi đó đã ngoài 90 tuổi song vẫn còn minh mẫn. Ông kể về hoàn cảnh Hoàng Diệu tuẫn tiết sau khi quân Pháp đã hạ được thành như sau : “Quan Tổng đốc mới lên voi chạy vào Hành cung. Vào sân rồng lạy năm lạy, vừa lạy vừa khóc rồi quay ra. Lúc ấy ngài chít khăn xanh, mặc áo the thâm, thắt lưng nhiễu điều, tay cầm kiếm. Ngài đến cửa Võ miếu. Xuống voi đi vào, có mười võ cử suất đội đi theo.
Đến đấy ngài đuổi cả về, và bảo rằng : “Ai muốn về Huế thì về; ai muốn đánh thì theo quân thứ Sơn Tây”. Nói xong, ngài vào Võ miếu đóng sập cửa lại, cởi khăn chít lên cây táo mà tự vẫn.
Khi thành đã bị phá xong, trong hàng phố được tin quan Tổng đốc tuẫn tiết, rất thương xót. Ông Thương Kim, một thân hào, cùng dân hàng phố góp tiền mua áo quan đem chôn ở gần miếu Trung Liệt. Rồi sau lại di ra dinh quan Đốc học”.
Như vậy là ông Thương Kim (chính ra phải nói là Bá Kim vì khi đó ông chưa là Thương biện), là người đứng ra tổ chức chôn cất cho cụ Hoàng Diệu. Nên nhớ là lúc đó, các quan lại cao cấp kế cận Hoàng Diệu kẻ thì trốn trong Hành cung, nhịn đói ba ngày rồi ra hàng Pháp như Tuần phủ Hoàng Hữu Xứng, kẻ thì trốn lên Sơn Tây như Bố chính Phan Văn Tuyến, kẻ thì mưu tính ra ôm chân Pháp như Án sát Tôn Thất Bá, chẳng ai nghĩ đến việc mai táng cụ Hoàng Diệu. Việc một ông Bá hộ đứng ra tổ chức chôn cất cụ Hoàng Diệu có một ý nghĩa nhất định.
Hiện nay, khu vực số nhà 29 phố Hai Bà Trưng – Hà Nội, là dinh cơ cũ và là ngôi nhà thờ đại tôn của họ ông. Những ngày giỗ chạp lớn, cả năm chi đều về đây dâng lễ.
Về chuyện tháp Rùa, việc cho là ông Bá Kim xây dựng để táng hài cốt song thân thì không có một tài liệu thành văn nào, chỉ là truyền thuyết dân gian. Vậy hãy cứ coi là truyền thuyết chứ chưa thể coi là sự thật lịch sử.
No comments:
Post a Comment