Dù danh chính ngôn thuận là một cuộc “thảo luận” về đơn xin chức danh “NHMRC fellowship” của tôi, nhưng trong thực tế đây là một cuộc phỏng vấn hay thẩm vấn. Có lẽ cái khác giữa xin việc và xin chức danh ở đây là những người xin việc không phải là những người đang thất nghiệp hay muốn chuyển chỗ làm, mà là những giáo sư đã thành danh, những nhà khoa học lãnh đạo một nhóm nghiên cứu. Vì thế, qui trình và “luật chơi” trong phỏng vấn cũng rất khác với một cuộc phỏng vấn xin việc, và do đó có rất nhiều điều đáng nói. Tôi xem đây là một kinh nghiệm mà tôi muốn thuật ra ở đây để các bạn đồng nghiệp khác lấy đó làm bài học cho các cuộc phỏng vấn khác. Ngoài ra, tôi muốn nhân câu chuyện này để nói đến một cách tổ chức hoạt động khoa học ở Úc mà có thể là một trường hợp để Việt Nam tham khảo trong quá trình tổ chức lại hoạt động khoa học ở nước ta.
Nhu cầu cho chương trình NHMRC fellowship
Nước Úc chỉ có 20 triệu dân, nhưng có những thành tựu rất đáng tự hào về hoạt động khoa học trên trường quốc tế, với nhiều người đoạt giải Nobel. Nhưng đó là là những thành tích của 40 hay 50 năm về trước, còn trong thời gian gần đây thì tình trạng xuống dốc trong các đại học và viện nghiên cứu đã được báo động nhiều lần. Tình trạng chảy máu chất xám càng ngày càng trầm trọng, Ngoài con số hàng ngàn chuyên gia bỏ xứ sang Mĩ và Âu châu làm việc, còn có hàng trăm các nhà khoa học trình độ tiến sĩ, giảng sư, và giáo sư bỏ Úc sang làm việc tại Mĩ với khả năng hồi hương rất thấp vì thiếu ngân sách cho nghiên cứu khoa học và cơ cấu sự nghiệp không rõ ràng. Chẳng riêng gì Mĩ, mà ngay cả nước láng giềng đang lên như Singapore cũng đang chiêu dụ các nhà khoa học Úc sang làm việc trong các đại học và trung tâm nghiên cứu của họ.
Hệ quả là hoạt động khoa học của Úc xuống cấp. Có người so sánh rằng những ngành mũi nhọn mà Úc từng đi tiên phong mấy mươi năm về trước nay lại sau Mĩ đến 10-20 năm! Chính phủ ý thức được tình trạng khoa học nước họ đang trên đà tụt hậu, nên năm nay Quốc hội dự trù một ngân sách lên đến 5 tỉ đôla để chấn hưng và phát triển khoa học. Ngân sách khổng lồ này được dự trù cho 5 năm, với nhiều chương trình cụ thể như xây dựng cơ sở vật chất, chấn chỉnh đội ngũ giáo sư, cung cấp học bổng cho nghiên cứu nước ngoài làm nghiên cứu tại Úc, và cung cấp ngân quĩ cho các nhà khoa học Úc thực hiện các dự án nghiên cứu ở nước ngoài, nhất là các nước Á châu.
Một trong những phương cách để chấn hưng và phát triển khoa học là chấn chỉnh lại đội ngũ nhà khoa học. Chính phủ Úc thiết lập một số chương trình Fellowship (giống như cấp “học bổng” hay nói đúng ra là lương bổng và chi phí nghiên cứu cho các nhà khoa học chuyên nghiệp). Các chương trình này bao gồm NHMRC Fellowship (National Health and Medical Research Council) chủ yếu dành cho các nhà khoa học thực nghiệm như y sinh học, ARC Fellowship (Australian Research Council) chủ yếu dành cho các nhà khoa học tự nhiên, Australia Fellowship chủ yếu dành cho việc “chiêu dụ” các nhà khoa học Úc đang ở nước ngoài, và nhiều chương trình cho các nhà khoa học trẻ.
Cần nói thêm rằng ở Úc ARC và NHMRC là hai cơ quan có trách nhiệm quản lí ngân sách khoa học. Thật ra, đây không phải là “cơ quan” đúng nghĩa, mà là một hội đồng khoa học, mà thành viên là các nhà khoa học trong nước thay nhau đứng ra quản lí và điều hành. Mỗi năm, chính phủ giao cho hai hội đồng một ngân sách, và việc phân phối tiền cho các dự án nghiên cứu được tiến hành theo những qui trình được cộng đồng khoa học nhất trí. Do đó, chương trình fellowship cũng do hai hội đồng này quản lí. Chính phủ hoàn toàn không can thiệp vào quyết định của hai hội đồng này.
Chương trình NHMRC fellowship này nhắm vào 5 mục tiêu chính như sau: Thứ nhất là khuếch trương và nuôi dưỡng một đội ngũ khoa học gia ưu tú cho Úc. Thứ hai là đảm bảo các nhà khoa học này một sự nghiệp vững vàng (tức họ không phải lo chuyện “cơm áo gạo tiền”). Thứ ba là xây dựng một môi trường tri thức và cơ sở vật chất để huấn luyện thế hệ khoa học gia trẻ. Thứ tư là khuyến khích việc chuyển giao công nghệ và ứng dụng các thành tựu nghiên cứu vào thực hành lâm sàng, hoạt động sản xuất, và qua đó nâng cao tính cạnh tranh của Úc. Thứ năm là khuyến khích và tạo điều kiện để các nhà khoa học có những mối tương tác với các cơ quan chính phủ và công ti kĩ nghệ. Nói tóm lại, mục tiêu chính của chương trình fellowship là nhắm vào việc xây dựng một đội ngũ khoa học gia loại “hoa tiêu” cho Úc để nâng cao tính cạnh tranh của Úc trên trường quốc tế.
Cụm từ “nhà khoa học ưu tú” không phải dễ định nghĩa và cũng chẳng ai qui định trên giấy trắng mực đen như thế nào, nhưng qua trao đổi cá nhân với nhau, các nhà khoa học đều nhất trí rằng nhà khoa học ưu tú là người đứng trong nhóm “top 5%” trong một lĩnh vực chuyên môn ở bình diện quốc tế (chứ không phải quốc gia). Xuất phát từ định nghĩa bất thành văn này, NHMRC đề ra những tiêu chuẩn chung và cụ thể cho từng loại fellow. Các tiêu chuẩn chung nhấn mạnh đến năng suất khoa học, khả năng lãnh đạo, đóng góp cho chuyên ngành ở bình diện quốc tế, huấn luyện và đào tạo các thế hệ nhà khoa học trẻ, và hợp tác quốc tế. Các tiêu chuẩn cụ thể bao gồm số lượng ấn phẩm khoa học (tức bài báo nghiên cứu khoa học, sách chuyên môn, tất nhiên là không kể đến những bài báo trong hội nghị), chất lượng các công trình nghiên cứu, giải thưởng quốc tế, có hoạt động tích cực trong các hội đoàn quốc tế, có đóng góp vào việc phát triển chuyên ngành qua các hoạt động trong ban biên tập tập san chuyên môn, v.v…
Vấn đề đặt ra là tuyển dụng những nhà khoa học ưu tú này từ đâu? Nguồn thứ nhất là từ các giáo sư đang công tác tại đại học và viện nghiên cứu của Úc. Tất nhiên, cũng có thể tuyển từ nước ngoài, đặc biệt là Mĩ và Âu châu. Mỗi năm, NHMRC gửi thông báo đến những nơi vừa kể để mời các giáo sư và giảng sư đệ đơn xin làm fellow của NHMRC. Chữ fellow rất khó dịch, nên tôi đành để nguyên văn. Có 3 loại fellow chính (từ thấp đến cao): research fellow, senior research fellow, và principal research fellow. Người đệ đơn lần đầu không có quyền xin chức principal research fellow, cho dù người đó từng chiếm giải Nobel, vì chức danh này chỉ dành cho những senior research fellow xin đề bạt. Người được bổ nhiệm các chức danh này có quyền (hay vinh dự) đề cụm từ “NHMRC fellow” trước tên mình.
Được bổ nhiệm NHMRC fellow, do đó, không chỉ là một vinh dự cho cá nhân nhà khoa học, mà còn là một niềm hãnh diện của trường đại học nơi ứng viên công tác. Thật ra, đối với trường đại học họ “rảnh tay” và tiết kiệm một số tiền khá lớn, vì họ không phải trả lương cho nhà khoa học khi nhà khoa học đã được bổ nhiệm NHMRC fellow! Còn đối với nhà khoa học, họ không phải kí hợp đồng mỗi năm với trường đại học, vì mỗi fellowship được chính phủ nuôi dưỡng đến 5 năm. Nói tóm lại, cả đôi bên – đại học và nhà khoa học – đều có lợi!
Qui trình bình duyệt (phản biện)
Nói chung qui trình xét duyệt đơn fellowship cũng không khác gì qui trình xét đơn tài trợ, tức phải qua bình duyệt (hay nói theo ngôn ngữ trong nước là “phản biện”). Trong qui trình này, tờ đơn fellowship đóng một vai trò cực kì quan trọng. Cũng như bất cứ chương trình nào đem lại lợi ích cũng kèm theo những điều kiện và khó khăn. Đó là những khó khăn, hay có thể nói là rất khó khăn, trong quá trình chuẩn bị đơn fellowship. Cái khó khăn không chỉ vì những qui định bất di bất dịch về số chữ, số trang, nhưng ở chỗ ứng viên phải đi ngược về quá khứ cả hai mươi năm về trước để tìm những chi tiết về các công trình nghiên cứu mình từng làm, để thống kê hết những chỉ số liên quan đến những ấn phẩm khoa học. Vì quá chi tiết như thế, đối với nhiều người, soạn thảo một đơn xin fellow của NHMRC là một cơn ác mộng (nightmare).
Do đó, việc chuẩn bị đơn rất công phu và tốn đến 2-3 tháng trời. Trung bình một đơn xin làm fellow của NHMRC dài khoảng 100 trang. Trong đơn, ngoài những chi tiết cá nhân, ứng viên còn phải liệt kê tất cả những ấn phẩm khoa học (không tính những bài báo trong hội nghị khoa học) đã công bố, hệ số ảnh hưởng của tập san (impact factor) là bao nhiêu, số lần trích dẫn bao nhiêu, và trong trường hợp bài báo có nhiều tác giả, ứng viên phải nêu rõ vai trò của mình trong bài báo là gì. Ngoài phần ấn phẩm khoa học, ứng viên còn phải liệt kê tất cả những lần được các hội nghị khoa học nước ngoài mời giảng, nói chuyện, hay chủ tọa; giải thưởng cấp quốc gia và quốc tế, hoạt động gì trong các hội đoàn khoa học quốc tế; đóng vai trò gì trong bình duyệt bài báo hay tham gia ban biên tập tập san nào, ở đâu, chỉ số ảnh hưởng ra sao; đào tạo bao nhiêu thạc sĩ và tiến sĩ (không kể cử nhân); đào tạo bao nhiêu hậu tiến sĩ; thành tích thu hút tài trợ từ nước ngoài và trong nước ra sao; có đóng góp gì cho chính sách khoa học quốc gia và quốc tế; có đóng góp gì cho cộng đồng và quần chúng; v.v…
Trường hợp của tôi, đơn fellowship được chuẩn bị kĩ càng (vì tôi đã có kinh nghiệm) ngay từ những tuần nghỉ hè ở Bệnh viện Kiên Giang. Đơn của tôi được 3 đồng nghiệp đọc kĩ và góp nhiều ý thẳng thắn nhưng rất có ích. Phải nói rằng các đồng nghiệp này rất tận tình giúp đỡ, chỉ ra những lỗ hổng trong đơn, những “điểm nhấn” cần chú trọng, cách trình bày, thậm chí những sai sót chính tả. Không có họ, tôi không thể nào có một đơn hoàn chỉnh được. Cần nói thêm rằng, mẫu đơn của NHMRC cực kì máy móc, chứ không phải “tự do” viết gì thì viết. Chẳng hạn như có chỗ họ qui định chỉ mô tả trong vòng một trang với kiểu chữ Times New Roman 12, nếu không tuân theo qui định này thì họ sẽ tự động trả lại đơn và chờ đến năm sau nộp! Không có ngoại lệ. Không phân biệt ứng viên là ai. Thành ra, nếu không có đồng nghiệp đọc và góp ý, tôi nghĩ khó mà có một đơn fellowship hoàn chỉnh được.
Tất cả các tiêu chuẩn và qui trình duyệt đơn đều được công bố trên mạng. Theo qui trình này, khi nhận được đơn, NHMRC sẽ thành lập một số ủy ban chuyên ngành để duyệt đơn. Mỗi ủy ban có 6 thành viên, được tuyển chọn từ các nhà khoa học. Thông thường những thành viên này là những người đã được bổ nhiệm fellow của NHMRC, nhưng cũng có khi chính những thành viên này cũng là những người đang đệ đơn xin chức fellow. Như đề cập trên, chính sách của chính phủ Úc là các quan chức nhà nước không can thiệp vào qui trình bổ nhiệm; tất cả việc bổ nhiệm và điều hành ngân quĩ đều do chính các nhà khoa học cùng nhau thực hiện theo các qui tắc đã được cộng đồng khoa học chấp thuận.
Nhiệm vụ chính của các ủy ban này là tuyển duyệt các đơn và thực hiện cuộc phỏng vấn. Khi nhận được đơn từ các ứng viên, ủy ban sẽ gửi đơn đến 4 chuyên gia (trong số này phải có 2 chuyên gia từ nước ngoài) để bình duyệt. Cũng như phản biện một bài báo khoa học hay đơn xin tài trợ nghiên cứu, ứng viên sẽ không biết các chuyên gia này là ai. Ứng viên có quyền đề cử chuyên gia bình duyệt và phải nêu lí do. Những người từng đứng tên tác giả với ứng viên trong các ấn phẩm khoa học hay những người có quan hệ mật thiết (như thầy / cô cũ) sẽ không có tư cách để bình duyệt đơn. Ứng viên cũng có quyền liệt kê các chuyên gia mà ứng viên không muốn họ duyệt đơn mình và phải nêu lí do. Tuy nhiên, rất ít khi nào ủy ban gửi đơn cho các chuyên gia mà ứng viên đề cử, vì họ thừa biết các chuyên gia này là bạn bè hay đồng nghiệp thân cận với ứng viên, nên chắc chắn họ sẽ có những ý kiến thiếu khách quan. Đôi khi (rất hiếm), ủy ban lại gửi đơn cho chính chuyên gia mà ứng viên đề nghị không nên duyệt đơn!
Dựa vào đề nghị của 4 báo cáo bình duyệt, ủy ban sẽ loại những ứng viên không đủ tiêu chuẩn, và chọn những ứng viên có triển vọng để phỏng vấn. Thông thường, số ứng viên bị loại bỏ trong vòng một này là 70-80%, tức chỉ có 20-30% được mời phỏng vấn (hay vào vòng hai). Cuộc phỏng vấn rất quan trọng, vì nó có thể đem lại thành công hay thất bại cho ứng viên. Có thể xem cuộc phỏng vấn là một cơ chế để sàng lọc ứng viên. Nên nhớ rằng, tất cả các ứng viên được mời phỏng vấn đều là những người đã đạt tiêu chuẩn fellow, nhưng đơn giản vì NHMRC không đủ ngân sách cho tất cả ứng viên, nên họ phải sử dụng cuộc phỏng vấn để … loại bớt ứng viên sao cho vừa đủ ngân sách.
Nếu ứng viên được bổ nhiệm là NHMRC fellow, tùy theo cấp bậc, ứng viên sẽ được cung cấp một ngân sách chủ yếu là lương bổng trong vòng 5 năm (lên đến gần 1 triệu đôla). Ứng viên có thể chọn bất cứ đại học hay trung tâm nghiên cứu nào để nghiên cứu. Nói cách khác, với một NHMRC fellowship trong tay, ứng viên bây giờ là người chọn đại học, chứ không phải đại học chọn ứng viên. Vì số tiền khá lớn và kéo dài đến 5 năm, cho nên ủy ban bình duyệt xem đây là một sự đầu tư tri thức, hay một cuộc đánh bạc. Mà, đã là đầu tư, thì họ phải cẩn thận xem xét khả năng đầu tư sẽ đem lại tối đa lợi ích. Chính vì thế mà họ phải xét đến thành tựu trong quá khứ, hiện tại và tương lai của ứng viên. Những thông tin trong đơn cũng chưa đủ, nên họ cần phải trực tiếp phỏng vấn ứng viên để xác định và xác minh các thông tin, cũng như tư cách của ứng viên xem có xứng đáng với chức danh hay không. Do đó, cuộc phỏng vấn đóng vai trò rất quan trọng, vì kết quả phỏng vấn có thể là yếu tố chính quyết định sự thành bại của ứng viên.
còn tiếp ...
No comments:
Post a Comment