Tám tuổi đã trở thành thần đồng thơ, cảm giác đó rất hay, phải không thưa anh?
Trước hết, tôi không có cảm giác gì cả. Khi làm thơ và in thơ, tôi hoàn toàn không để ý mình là cái gì. Ở làng quê tôi lúc bấy giờ không có báo chí, người dân chỉ nghe đài. Việc in sách riêng cũng rất dè dặt, nhất là ở các nhà xuất bản trung ương. Tôi in thơ trên báo nhiều nhưng để ra một tập riêng thì mãi đến năm 1973, NXB Kim Đồng mới in "Góc sân và khoảng trời" 66 bài với số lượng 50.000 bản. Tập sách này ra sau 5 năm tập thơ "Góc sân và khoảng trời" với 52 bài của tôi in ở địa phương do Ty Giáo dục Hải Hưng xuất bản. Tôi cũng chẳng nghĩ mình là người nổi tiếng gì đâu. Hồi ấy, chỉ thấy nhiều khách đến thăm. Thế thôi. Còn cái nhãn hiệu "thần đồng thơ", thì bây giờ người ta mới nói. Tôi nghĩ đó là thứ nước đường ban phát cho trẻ con, và chỉ dành riêng cho trẻ con thôi. Không ai gọi người lớn là "Thần đồng" cả. Tôi bây giờ đã là bố trẻ con, đã là ông lão rồi, nên danh hiệu ấy đối với tôi cũng không có gì ấn tượng. Tôi nghe như người ta nói về ai ấy chứ không phải tôi.
Bài thơ đầu tiên anh viết trong cuộc đời thơ của mình là ...?
Đó là bài "Con bướm vàng". Một buổi trưa tôi đang nấu cơm, thấy con bướm vàng bay vụt qua cửa bếp, liền nảy ra bài thơ đó. Tôi chọn thể thơ ba chữ, vì nó hợp với con bướm đang bay, đang vỗ cánh. Đó là tôi cảm giác thế thôi. Nguyên cả bài là "Con bướm vàng - Con bướm vàng - Bay nhẹ nhàng - Trên bờ cỏ - Em thích quá - Em đuổi theo - Con bướm vàng - Nó vỗ cánh - Vút lên cao - Em nhìn theo - Con bướm vàng - Con bướm vàng...Thoạt đầu là Con bướm vàng - Con bướm vàng - Bay nhẹ nhàng - Trên bờ rào... Tôi thấy gì ghi nấy, không có ý đồ nghệ thuật gì đâu. Con bướm chao trên bờ rào thật, chứ không phải bờ cỏ. Làm sao có bờ cỏ ở vườn nhà. Người quê quý đất lắm. Có miếng đất nào thì người ta tận dụng cho bằng hết, dù chỉ là miếng đất cạnh chân rào, hay ô đất bé bằng bàn tay bên vại nước, không trồng cây được, thì họ gieo một ít rau thơm, hay húng láng. Nhưng viết "Trên bờ rào", tôi linh cảm thấy không ổn. Bốn câu này toàn dấu huyền Con bướm vàng - Con bướm vàng - Bay nhẹ nhàng - Trên bờ rào... (sau này tôi mới biết là vần bằng). Nhưng lúc ấy, tôi chỉ cảm giác rằng dùng đến bốn dấu huyền trong bốn câu thơ liền, thì con bướm không phải đang bay mà đang sà xuống. Phải cho nó vỗ cánh lên thôi. Thế là tôi đổi bờ rào thành bờ cỏ. Với từ "bờ cỏ", tôi cảm thấy con bướm đang vỗ cánh. Hồi ấy, viết xong, tôi cũng thích bài thơ này lắm. Nó là con bướm nhưng cũng không chỉ là con bướm. Nó như tuổi thơ chập chờn đến rồi đi, có đuổi theo cũng không được, níu giữ cũng không được.
Một lần tôi đến thăm nhà cô bạn học cũ. Bà mẹ giới thiệu rất hãnh diện với cậu con trai: "Đây là bác Khoa, nhà thơ, bạn học của mẹ đấy." Không ngờ, thằng bé đúng bằng tuổi tôi khi làm bài thơ này, bộp luôn một câu: "Ai chứ bác Khoa thì con biết rồi. Bác ấy chuyên làm thơ con cóc". Bà mẹ hoảng quá, vì không chuẩn bị cho cái tình huống như thế, hơn nữa, bạn của mẹ, lại là khách quý, vừa chân ướt chân ráo đến nhà mà con thì bổ luôn vào mặt khách một lưỡi búa của ông...Tầm sét. Cô bạn rất bối rối, còn tôi thì vô cùng sung sướng. Tôi bảo "Không phải mẹ cháu là bạn bác mà chính cháu mới đúng là bạn bác. Cháu nói cho bác nghe xem bác đã làm thơ con cóc như thế nào?". Thằng bé hỏi "Thế bác có biết bài thơ con cóc không?". "Bác biết. Con cóc trong hang, Con cóc nhảy ra. Con cóc ngồi đấy, Con cóc nhảy đi". Thơ con cóc là thơ nói điều hiển nhiên, ai cũng thấy, chẳng cần phải nhà thơ phát hiện. "Bác có bài thơ y hệt bài "Con cóc". Đấy là "Con bướm vàng". Kia là con cóc từ xa đến, nó ngồi đấy rồi nhảy đi, đây là con bướm vàng nó cũng từ xa đến, rồi bay đi, nghĩa là chẳng có gì khác nhau cả. Chỉ khác là bác đã gắn cho nó đôi cánh của con bướm và bác cứ tưởng nó là con bướm. Thực tình nó vẫn chỉ là con cóc thôi... Tôi rất phục cháu bé ở Hải Dương đó. Bằng tuổi nó, tôi chỉ làm được những câu thơ ngớ ngẩn, chứ đâu đã có được ý kiến riêng, đặc biệt là ý kiến khác mọi người. ý kiến của cháu, đối với tôi là một sự phát hiện mới. Tất nhiên, lớn lên, cháu sẽ hiểu, khi con cóc có đôi cánh của con bướm thì con cóc cũng đã không còn là con cóc nữa rồi.
Khi viết anh có nghĩ mình sẽ trở thành nhà thơ - và là một thần đồng thơ không?
Hoàn toàn không. Tôi viết như chơi, không hề có ý thức gì. Năm 1968, khi gặp Xuân Diệu, tôi mới biết làm thơ rất vất vả, chứ trước đó một ngày tôi viết đến 3, 4 bài. Sở dĩ thời đó tôi viết được nhiều, cũng vì mọi người khi xem thơ tôi in trên báo, lấy làm lạ và đến nhà chơi rất đông, không ít người không tin, cho là người lớn gà, nên yêu cầu tôi làm thơ tại chỗ. Ngay cả nhà văn Lý Biên Cương, bạn thân của anh Minh đến nhà , cũng yêu cầu tôi làm thơ tặng. Tôi viết luôn :"Anh đi xe lết cao cao, dừng xe ở cửa anh vào nhà em, mắt anh đeo cặp kính đen, xe anh cũng chẳng có đèn có chuông". Kỷ niệm này, anh Lý Biên Cương vẫn còn nhớ. Đấy là thơ con cóc, tả anh Cương đúng như hôm anh ấy đến nhà, nhưng loạng quạng thế nào lại ra ông thiến lợn. Nhiều bài trong tập "Góc sân và khoảng trời" sau này cũng viết trong trường hợp như thế. Viết theo yêu cầu đã tạo cho tôi thói quen của một người sáng tác chuyên nghiệp khi vẫn còn bé tý. Nghĩa là không phải viết ngẫu hứng. Mà nói thật, tôi chẳng thấy hứng gì khi bắt tay vào viết. Có người bảo làm thơ phải có hứng, điều đó với tôi rất xa lạ. Tôi cứ viết, viết ào ào, rồi hứng đến sau.
Thưở ấy, anh đã đọc thơ của anh mình, nhà thơ Trần Nhuận Minh chưa? Anh có ngưỡng mộ thơ của anh mình và mong muốn sau này sẽ trở thành một người như anh ấy không?
Ngưỡng mộ thì không hẳn, vì thời đó bác Minh cũng ở vị trí khiêm nhường lắm. Chẳng ai để ý đâu. Ngay tôi, tôi cũng không để ý. Sau này, có người đọc bác Minh, vẫn đọc theo ấn tượng cũ. Đấy là điều rất thiệt cho bác ấy. Thơ Trần Nhuận Minh bật lên từ thời kỳ đổi mới. Tôi cho đó là môt cuộc lột xác. Mà lột đến ba lần, từ Nhà thơ và hoa cỏ, đến Bản xô nát hoang dã và gần đây là 45 khúc đàn bầu của kẻ vô danh. Bác Minh đã đổi mới thành công vì găm được không ít thơ mình vào tâm trí người đọc. Trong hai anh em, nếu chỉ nhìn ở mảng thơ, tôi nghĩ rằng, bạn đọc sau này chỉ nhớ đến Trần Nhuận Minh thôi chứ không nhớ đến cậu Khoa đâu. Còn trước đổi mới, anh ấy chỉ lòe nhòe lẫn trong đám đông. Nhưng trong đời, với tôi, anh ấy là một tấm gương sáng về tất cả mọi phương diện, đặc biệt là sự hiếu học và lòng đam mê sách. Tôi khôn lên được nhờ tủ sách của anh ấy. Còn tủ sách của tôi thì rất vớ vẩn. Tôi không đọc, mà đọc thẳng tủ sách của anh Minh. Anh ấy đi dạy học ở Quảng Ninh, có khi nửa năm mới về, nhưng chìa khoá tủ sách vẫn để ở nhà, anh ấy bí mật nhét vào ruột bức tượng M. Gorki đặt trên nóc tủ. Thế là tôi cứ lôi sách của bác ấy đọc. Đặc biệt là những cuốn sách cấm. Hồi ấy sao mà nhiều sách cấm thế. "Vào đời" và "Hai trận tuyến" của Hà Minh Tuân. Hai cuốn này thì cũng bình thường thôi. Tôi đặc biệt thích "Bỉ vỏ" của Nguyên Hồng, "Số đỏ", "Giông tố" của Vũ Trọng Phụng, "Thi nhân Việt Nam " của Hoài Thanh, "Núi đồi và thảo nguyên " của T. Aimatop, "Truyện ngắn A. Sekhop" có lời giới thiệu của Nguyễn Tuân. "Đỏ và Đen" của Standan...Đấy đều là sách cấm. Anh Minh bọc rất cẩn thận. Ngoài ngăn sách đó, còn có một dòng chữ của bác Minh: "Sách cấm. Đài báo nói là sách độc hại". Chính vì thế mà tôi tò mò đọc và thấy hay đến lạ lùng. Tôi đọc đến hàng ngàn cuốn sách khi còn ở tuổi cấp I, cấp II. Tôi học là học ở trong sách chứ không phải học ở nhà trường. Trường thì có gì đâu, nhất là trường trong chiến tranh và lại ở một làng quê còn nhiều lạc hậu. Đến bây giờ quê tôi vẫn còn rất lạc hậu. Tôi có chút nào nhích hơn so với bè bạn là nhờ ở sách thôi. Trí khôn của loài người nằm hết ở trong sách. Vì vậy, đọc càng nhiều càng tốt, bất kể đó là loại sách gì. Bởi thế, tôi rất mừng khi gần đây, NXBKĐ đã in rất nhiều sách không phải viết cho trẻ con để cho trẻ con đọc. Điều ấy là rất tốt và rất đúng.
Nhà thơ, nhà báo nào là người đầu tiên viết bài về thần đồng thơ Trần Đăng Khoa?
Người đầu tiên viết bài về tôi là anh Nguyễn Nghiệp ở Nhà xuất bản Giáo dục, sau đó là ông Hồng Nhu ở báo Quân đội Nhân dân. Hồi đấy, anh Nguyễn Nghiệp, được Bộ trưởng Nguyễn Văn Huyên giao cho việc về nhà tôi kiểm tra xác minh xem có đúng tôi làm được thơ không. Anh ở nhà tôi đến nửa tháng, cùng sống, đi cất vó, câu cá, cùng đến trường, cùng dự các buổi sinh hoạt...nói tóm lại là "ba cùng", và chứng kiến những vụ sát hạch của các thày ở Ty Giáo dục Hải Hưng và các vị khách vãng lai. Bản báo cáo của anh với Bộ trưởng, cũng là bài báo viết về tôi, in trên báo Người giáo viên nhân dân. Anh Nguyễn Xuân Khánh cũng viết một bài mấy kỳ in trên báo Thiếu niên Tiền phong "Cháu ngoan Bác Hồ, cậu bé làm thơ".
Anh có sưu tập các bài báo viết về mình không?
Hồi đó tôi không biết, vì báo không đến nhà. Chỉ khi nào tôi có thơ in thì người ta mới gửi báo biếu. Nhưng hồi đó sướng lắm. Chỉ có một bài in, là được báo biếu liên tục 6 tháng. Chỉ cần hai bài in đã có một năm báo để đọc. Tôi in bài chủ yếu trên báo Thiếu niên tiền phong, Văn Nghệ, Văn Nghệ Quân Đội. Sau này, đọc những luận văn, luận án của các bạn sinh viên, nghiên cứu sinh, họ thu thập thông tin mới biết các bài báo viết về mình như thế. Chứ hồi đó thì tôi không biết gì cả. Cho đến nay, đã có hơn 20 luận án tốt nghiệp đại học, cao đẳng, luận án Tiến sĩ về các sáng tác của tôi.
Trở thành một nhà thơ "nhí" nổi tiếng có ảnh hưởng nhiều đến việc học tập của anh không?
Thật ra hồi đó tôi cũng không biết mình nổi tiếng đâu, thật sự thế đấy. Phải nói thẳng ngày xưa tôi học không giỏi, bởi rất tài tử. Khi đi học tôi chỉ có một cuốn vở, viết lộn tùng phèo tất cả vào đó, vở hết thì thay cuốn khác. Chẳng có nề nếp trật tự gì cả. Rồi cứ thế nhét vở vào túi quần mà đến lớp. Cho nên chỉ kiểm tra vở sạch chữ đẹp là tôi bị loại khỏi danh sách học sinh tiên tiến. Vì học sinh tiên tiến không được có điểm 7. Hay tập làm văn cũng thế. Tôi rất khốn khổ để luyện câu văn theo khuôn mẫu nhà trường để trở thành học sinh giỏi văn Toàn Miền Bắc (Hồi đó đất nước bị chia cắt, nên Học sinh giỏi chỉ thi nửa nước thôi). Tôi 2 lần thi đều đoạt giải cao (Giải nhất và giải nhì). Sau này, khi ra trường, để phấn đấu thành một nhà văn, tôi cũng rất khốn khổ trong việc thoát ra khỏi những câu văn theo phép tắc học trò. Ở ta, nhà trường và đời sống là một khoảng cách rất xa nhau. Đó là nỗi bất hạnh của người đi học.
Anh khó chịu hay hãnh diện khi là "người của mọi người"? Anh thích tất cả mọi người đều biết đến mình và gọi mình là thần đồng chứ?
Chẳng hay ho gì khi đi đâu cũng có người cứ chỉ chỉ chỏ chỏ. Có người lại còn tò mò kiểm tra xem mình có đuôi hay không, mình ...ị cứt vuông hay cứt tròn. ( Xin lỗi)...Có không ít ông khách đến ở nhà tôi hàng tuần liền, khi đi mới tiết lộ như vậy. Khiếp quá! Sướng nhất là được làm một người vô danh.
Mệt mỏi như thế, anh có phải gồng mình lên để xứng đáng với vai trò một nhân vật luôn bị "người ta trông vào"?
Tôi không ý thức lắm đâu. Tất nhiên là các anh chị phụ trách cũng rất hay nhắc nhở cần phải thế này, thế kia và tôi luôn luôn được uốn nắn.
Anh có "biện pháp" gì đối phó với tình trạng luôn bị kiểm tra, sát hạch ấy?
Thoạt đầu tôi rất khó chịu. Nhưng rồi quen dần. Quen lại thấy hay hay. Nhờ thế mà tôi trở thành người viết chuyên nghiệp ngay từ khi còn bé
Bây giờ anh có cảm thấy mệt mỏi như ngày xưa không?
Nói thế này có lẽ hơi khó tin, nhưng ngày xưa tôi như thế nào, thì bây giờ vẫn như thế.
Lúc nào cậu bé Khoa cũng nghĩ đến việc phải tìm ra tứ thơ, câu thơ hay, cho ra mắt bài thơ mới chăng?
Không phải thế. Tôi không yêu thơ đến mức thế đâu. Khi cần viết thì viết. Nếu cảm thấy chán thì thôi. Tôi rất tự tin và không bị tác động bởi dư luận nhuốm đầy mầu sắc cảm tính. Tôi rất biết là mình đang ở đâu.
Anh có thể cho biết mình ở đâu?
Tôi vẫn là mình, vẫn là Trần Đăng Khoa.
Hình như anh đã từng viết trường ca và bị nhà thơ Xuân Diệu " bóng gió" là...không nên đẻ như gà?
Tôi viết trường ca rất sớm. Trường ca đầu tiên viết khi học lớp 4 và trường ca cuối cùng viết năm 1974, khi đang học lớp 10. Sau đó, tôi giã từ trường ca, vì không có nhu cầu viết nữa, chứ không phải vì Xuân Diệu chê. Xuân Diệu không thích trường ca. Ngay trường ca "Đường tới thành phố", tác phẩm đặc sắc nhất của Hữu thỉnh, Xuân Diệu cũng phủ nhận rất quyết liệt. Không phải lúc nào Xuân Diệu cũng đúng.
Người ta bảo anh là nhà thơ nhí được hai cây đại thụ trong làng thơ Việt Nam là nhà thơ Tố Hữu và nhà thơ Xuân Diệu"đỡ đầu", điều đó khiến anh thấy mình may mắn?
Tất nhiên rất may mắn, vì có Xuân Diệu tôi mới ý thức hơn nữa cái gọi là lao động văn chương. Tôi hiểu nghề văn là nghề lao động khổ sai. Làm một nhà thơ lớn đến như Xuân Diệu mà tôi thấy ông cũng chẳng sung sướng gì. Vì thế, nghề văn là nghề chẳng có gì đáng để kiêu ngạo, ngay cả khi anh đã rất thành đạt.
Thưở bé anh là cậu bé tự tin, dạn dĩ, hay xấu hổ? Cậu Khoa ngày đó có giống với Trần Đăng Khoa bây giờ?
Tôi thưở trước y hệt như bây giờ, không khác gì đâu. Có chăng, thuở đó mình là thằng bé con, còn bây giờ là một lão già. Bởi thế, bây giờ, con người tôi hợp với khuôn mặt tôi. Còn hồi đó, nhiều người bảo tôi là ông cụ non. Tám chín tuổi đã đi nói chuyện thơ. Nhiều hội nghị chẳng dính gì đến văn chương cũng mời Trần Đăng Khoa đến, giành cho mấy tiếng đồng hồ để đọc thơ và nói chuyện. Có những hôm tôi phải đứng lên ghế mới cao ngang micrô, nói chuyện và trả lời các câu hỏi của độc giả. Nghĩa là tôi y hệt như bây giờ.
Khi nhận được những lời mời đi nói chuyện thơ trước rất đông người trong các cuộc hội nghị, anh chuẩn bị bài phát biểu trước không?
Không. Vì biết thế nào mà chuẩn bị. Tôi cứ nhìn vào thính giả mà nói. Buổi nói chuyện như thế nào là do khán giả quyết định. Khi họ chán là phải đổi chương trình ngay. Không đổi được thì phải rút ngay. Mà phải rút lui trước khi họ chán.
Nhiều người nói anh có trí nhớ tuyệt vời, nhưng hình như đó là trí nhớ biết "nhớ những điều nên nhớ và biết quên những điều đáng quên"?
Điều đó cũng đúng chỉ một phần thôi, bởi ngay cả những cái rất dớ dẩn tôi vẫn nhớ. Nhớ đến không thể xoá đi được. Điều tôi khó nhớ nhất, là những cái cứ bàng bạc, cứ kẽo cà kẽo kẹt một cách nhạt nhẽo. Còn những cái thật hay hoặc thật dở thì tôi nhớ ngay. Nhớ tắp lự. Tôi ớn nhất là những cái cứ nhàn nhạt. Những cái ấy không thể nhớ được. Có học rồi cũng quên.
Anh có làm thơ tặng các thiếu nữ hay đọc thơ lúc nói chuyện riêng với họ không?
Tuyệt nhiên không. Thậm chí tôi rất dị ứng với những anh như thế. Tôi thấy họ không bình thường.
Xin tò mò hỏi anh ...tỏ tình như thế nào khi yêu?
Tôi là một người rất bình thường, nên trong chuyện yêu đương cũng thế, chẳng có gì đặc biệt để đem khoe với bạn. Có người nghĩ tôi là một anh chàng rất lãng mạn, lại có người nghĩ tôi rất nhà quê, thậm chí là rất ngớ ngẩn. Có ông còn viết Trần Đăng Khoa đi Tây mang theo cả can nước mắm, khi về nhà nhớ nước mắm quá lão tu luôn nửa chai. Rồi lão đánh quả mấy thùng khăn quàng đỏ. Đấy, trong con mắt của một số người, tôi hiện lên rất bệnh hoạn.
Có lẽ vì anh thông minh quá mà người ta không thể bắt được "kênh" của anh?
Cũng chả phải. Có lẽ người ta quen nghĩ dân văn chương là những người không bình thường, hoặc quá lập dị, hoặc quá ngớ ngẩn. Rồi cứ uốn mọi chuyện theo cái khuôn định kiến có sẵn ấy. Thế nên rất buồn cười.
Đọc lại những bài thơ viết khi còn nhỏ, anh nghĩ gì? Anh cho mình sẽ viết hay hơn như thế, nếu trở lại tuổi thơ không?
Theo tôi, chúng ta không nên đặt vấn đề như thế. Không nên bắt ông già làm một đứa bé con. Cũng như không thể bắt con voi bé lại thành con kiến và rồi hy vọng con kiến lại có cái đầu của con voi.
Nghĩa là anh không muốn trở lại làm một thần đồng như thưở trước?
Không ai có thể trở lại làm trẻ con một lần nữa. Thời đó đã xong rồi. Hay dở gì thì cậu Khoa cũng đã hoàn thành xong nghĩa vụ của cậu ấy.
-Trong những chân dung văn học mà anh đã công bố, có bao nhiêu phần trăm sự thật và bao nhiều phần trăm sự gần-giống-cái-thật?
- Nói đến sự thật là một vấn đề không mấy đơn giản, nhất là đối với việc sáng tác văn học. Vì cùng một sự việc, có thể tôi nhìn khác bạn. Và bạn thì nghĩ khác tôi? Điều ấy là rất bình thường. Bởi vậy không thể lấy mắt tôi ra làm tiêu chí, làm thước đo để đánh giá cách nhìn của bạn. Tôi rất tôn trọng sự trung thực, nhất là trung thực với chính mình. Tôi thường viết đúng như những gì mình thấy, mình nghĩ. Vốn là người làm báo và cũng say mê với nghề báo, nên tôi có nhiều tư liệu rất tốt, gần đây, làm chương trình về một vài nhà văn đã khuất, các bạn bên truyền hình đã sử dụng không ít những tư liệu của tôi. Tôi quay phim các nhà văn cũng vì lòng yêu mến, ngưỡng mộ, muốn giữ lại hình bóng của họ trên cõi thế. Chỉ đơn giản vậy thôi chứ cũng chẳng có mục đích nào khách. Tôi rất tiếc không kịp quay Xuân Diệu, Chế Lan Viên và một số nhà văn khác mà tôi yêu mến. Hồi các cụ còn sống, nước mình khổ quá. Bây giờ có muốn ngắm gương mặt các cụ cũng chịu. Thế nên sau này, có điều kiện, tôi cứ ghi lại. Ghi rồi để đấy. Cái gì sử dụng được thì sử dụng. Cái gì chưa sử dụng thì để ở dạng tư liệu. Có cuộc đối thoại, tôi chép từ băng ghi âm ra (hiện băng tôi vẫn còn giữ, và đã chuyển sang đĩa CD), vậy mà khi sách ra, có ý kiến phê phán, quy chụp, thế là người ta chối từ, bảo tôi bịa, tôi đã nhét vào miệng họ chứ họ không nói như thế. Tôi thấy chán quá. Vừa chán vừa buồn cười.
-Những tác phẩm văn học mà mà anh đang đọc trong thời điểm này? Và nó có tác động lên anh không?
- Tôi đọc rất nhiều. Ngày nào cũng đọc. Tôi rất thích Mạc Ngôn. Anh có hai cuốn dịch sang ta đều vào loại rất hay. Cuốn "Báu vật của đời" còn có đôi chút cường điệu, chứ "Đàn hương hình" thì nhuần nhuyễn từ đầu đến cuối. Trong bể sách hiện nay, nói thực với bạn, tôi chỉ thấy có hai cuốn đó là đáng đọc thôi. Không còn nghi ngờ gì nữa, Mạc Ngôn là một trong những nhà văn lớn nhất của hành tinh này ở chính thời điểm này. Tôi phục Mạc Ngôn một phần, còn phục hơn là phục các nhà lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc. Họ đã đổi mới đúng. Nhờ thế mà trong một khoảng thời gian rất ngắn, Trung Quốc đã thực sự trở thành một quốc gia hùng mạnh trên tất cả mọi lĩnh vực. Riêng văn học và điện ảnh, chúng ta thấy quá rõ. Suốt ngày, dân mình xem phim Trung Quốc. Tất nhiên, đó mới chỉ là hàng chợ của họ thôi. Nhưng hàng chợ, họ làm cũng giỏi vô cùng. Còn văn học thì một trong những đại biểu của họ là Mạc Ngôn. Mạc Ngôn lại là một nhà văn còn rất trẻ. Anh cùng trang lứa với chúng tôi. Thế mới hãi. Đọc anh, không biết các nhà văn khác thế nào, chứ tôi thì tôi sốt ruột lắm. Sốt ruột và đau đớn. Tại sao cũng da vàng mũi tẹt như mình mà sao lão làm được những việc lớn như thế, mà mình thì cứ bi bét mãi. Trong cuộc hội thảo gần đây về tiểu thuyết, có nhà văn bảo: "Rồi chúng ta sẽ có những Mạc Ngôn". Tôi không tin. Không phải vì nhà văn chúng ta kém tài, mà vì chúng ta thiếu một cái gì đó. Cái đó lại nằm ngoài chúng ta.
- Hiện nay ở ta, hình như đang có một hiệu ứng Mạc Ngôn. Nhiều cây bút bắt chước Mạc Ngôn, trước đây thì bắt chước R. Marquez.
- Tôi không phải kẻ vọng ngoại. Xin bạn hãy lưu ý cho điều ấy. Và cả anh em mình nữa, nếu họ có tiếp thu những tinh hoa của nhân loại thì cũng nên xem là điều bình thường và nên khuyến khích chứ đừng vội quy kết. Tuy thế, học được cái hay của thiên hạ cũng chẳng dễ đâu. Gần đây, tôi có đọc một cuốn tiểu thuyết của một nhà văn cũng chưa phải là già. Cuốn sách nghe đồn có vấn đề. Tôi đọc và thấy nó chẳng có tội vạ gì cả. Nó chỉ có mỗi một tý nhược điểm là ...không hay. Thế thôi. Nhiều trang sa vào dung tục và đọc cứ thấy bẩn bẩn. Tôi kêu thì tác giả bảo: "Ông đã đọc Mạc Ngôn và R. Marquez chưa? Mạc Ngôn toàn vú vê. Marquez toàn cởi truồng. Bà Hồ Xuân Hương của ta cũng đâu có kém". Tôi thật sự kinh ngạc. Hoá ra ông bạn tôi chẳng hiểu gì Mạc Ngôn và cũng không biết gì về các bậc tiền bối. Quả trong tiểu thuyết Trăm năm cô đơn của Marquez có nhân vật là một cô bé quanh năm cởi truồng. Cô cởi truồng từ khi còn bé cho đến lúc thành một thiếu nữ xinh đẹp. Đó là một vẻ đẹp thánh thiện, đến nỗi chẳng ai để ý đến việc cô cởi truồng. Thế rồi một buổi trưa, cô đang tắm thì có tiếng động ở khe liếp phía sau. Cô quay lại. Có một ánh mắt đàn ông đang nhìn trộm. Thế là cô sợ quá, vội đưa tay che ngực rồi co người bay vút lên trời qua kẽ ngói thủng ở trên nóc nhà tắm. Cái chi tiết người bay qua kẽ ngói này quả là phi lý, nhưng người đọc lại không thấy phi lý, thậm chí lại có cảm giác rất thật. Đây là cái thật cao hơn sự thật. Khi bị nhìn trộm, vẻ đẹp của cô bé không còn thánh thiện nữa, nó đã bị nhuốm bẩn mất rồi. Không còn chốn nương náu nên cái đẹp phải "biến " thôi. Toàn bộ những chi tiết cởi chuồng là sự chuẩn bị cho cú bay ngoạn mục này. ông bạn tôi dường như chỉ học được phép cởi truồng và lại cứ tưởng cởi truồng là R. Marquez. Nhầm. Tinh hoa của Marquez chính là cái phép bay qua kẽ ngói thủng...
Có người bảo, người đàn ông ngoài 40 tuổi Trần Đăng Khoa bây giờ chỉ là cái bóng mờ của cậu bé con 8 tuổi Trần Đăng Khoa xưa kia. Anh nghĩ sao về nhận định này?
Chẳng ai yêu Trần Đăng Khoa bằng tôi và cũng chẳng có ai ghét Trần Đăng Khoa bằng tôi. Chính vì thế mà tôi rất hiểu ...bố con lão. Tôi có thể thành thật nói với bạn rằng, chẳng bao giờ lão già Trần Đăng Khoa lại là cái bóng mờ của thằng bé con Trần Đăng Khoa mà phải ngược lại mới đúng. Nhân đây, tôi cũng muốn nói thêm rằng, đừng nên lấy trẻ con làm thước đo người lớn, vì nó rất phản khoa học. Muốn so sánh phải so cùng cấp độ. So cậu Khoa với bạn bè cùng trang lứa với cậu, là những tác giả nhí nổi tiếng thời ấy, như Cẩm Thơ, Hoàng Hiếu Nhân, Nguyễn Hồng Kiên, Chu Hồng Quý, vv... hoặc nới rộng hơn, so cậu với mấy thi sĩ thuộc bậc đàn anh của câu, là những tác giả cùng nổi tiếng thời ấy xem bây giờ họ sống và viết ra sao, chứ sao lại so sánh giữa cô bé 8 tuổi với người phụ nữ trưởng thành. Chưa nói đến những vấn đề cao siêu, chỉ riêng cái ai cũng nhìn thấy ngay là cơ thể đã hoàn toàn khác nhau rồi. Nếu lấy cô bé 8 tuổi làm thước thì sẽ thấy người phụ nữ vô lý đùng đùng. Bởi trước kia sao nó nhẵn nhụi phẳng phiu thế mà bây giờ thì lại gồ ghề, lồi lõm thế. Đúng là một cơ thể có bệnh u bướu rồi. Đâu ngờ, chính những đường nét gồ ghề "bệnh tật" ấy lại chính là vẻ đẹp mê hồn của họ. Nếu không tin, bạn cứ thử đi hỏi giới mày râu mà xem! Thiên đường đấy!
Có người còn bảo nhà thơ Trần Đăng Khoa "về hưu" lúc 10 tuổi, anh nghĩ sao? Anh có cảm thấy cay đắng và khó chịu khi nghe người khác nói vậy không?
Tại sao lại cay đắng và khó chịu? Đó là một câu ông Trần Mạnh Hảo đề cao tôi. Mà đề cao hơi quá đáng, vì ông xếp tôi ngang với Thánh Gióng, Thánh Gióng 3 tuổi đã về hưu còn tôi 10 tuổi (nghĩa là tính đến năm 1968) đã xong một sự nghiệp, thế thì kinh quá còn gì ! Có lời đề cao nào hơn như vậy? Rồi còn bao thứ lão làm sau "hưu" nữa chứ. Khiếp quá!. Mấy ai được như thế?
Mỗi năm, các nhà xuất bản đều in đi lại những bài thơ thiếu nhi của anh, nhưng thơ người lớn của anh thì xuất hiện ít hơn, nếu không nói là không được như vậy?
Nhà xuất bản Kim Đồng chỉ in thơ thiếu nhi của tôi. Còn thơ người lớn thì Nhà xuất bản Văn hoá, Nhà xuất bản Thanh niên, Nhà xuất bản Văn Học in đi in lại trong các tuyển tập. Tôi không tách ra thơ người lớn và trẻ con. Đơn giản, nó là thơ của một tác giả, là thơ một đời. Mỗi lần in lại, tôi lại bổ sung thêm. Tôi in gộp luôn vào một cuốn để bạn đọc có dịp so sánh thơ tôi ở cả hai thời.
Dù không trở lại được thời trẻ con nữa, nhưng dường như anh đang muốn lại là Trần Đăng Khoa thuở bé trong lĩnh vực văn xuôi?
Nói thật, tôi rất yêu văn xuôi. Vì văn xuôi nói được rất nhiều điều. Tôi không phải là người viết cho thiếu nhi đâu, bởi khi viết, tôi không nghĩ đến thiếu nhi, cũng không nghĩ đến một lứa tuổi cụ thể nào.
Xin tò mò được hỏi, thưa anh, thủơ bé anh có hay nói dối không?
Có lúc, tôi cũng phải nói dối, vì không thể khác được. Chính bây giờ tôi chân thật hơn nhiều. Bây giờ, tôi nói thực, có kẻ ác ý lại bảo tôi là Thằng Cuội. Còn khi đó tôi nói dối người ta lại gọi tôi là cháu ngoan. Hồi đó, sống dễ bị dị nghị lắm. Chỉ cần thật tâm nhận xét về ai đó, nhất là chê ai đó, là dễ thành kẻ kiêu ngạo. Mà đã kiêu ngạo thì là đồ bỏ đi rồi, thế nên, đôi lúc, tôi cũng phải nói dối. Người ta hỏi cháu thích thơ ai? Tôi thường nói cháu thích chú Chế Lan Viên chất trí tuệ, thích chú Tố Hữu chất trữ tình, thích anh Phạm Tiến Duật nét hóm hỉnh... Mỗi người đều có một nét riêng đáng yêu, và cháu yêu tất cả, cháu thích tất cả. Thật ra thì tôi cũng có thích người này hoặc người kia hơn nhưng không thể chê hoặc nói thật ra được. Có lần, bác Hồ Thiện Ngôn làm ở TW Đoàn, ngươì tôi coi như bố về nhà tôi ba tháng để giám sát xem có đúng là thằng Khoa làm được thơ hay người khác làm hộ. Bác Hồ Thiện Ngôn về nhà tôi ngót một tháng và cũng xét nét tôi cũng kỹ hơn những người khác. Bác cùng sống với tôi, cùng tham gia với những sinh hoạt của tôi. Cùng theo tôi dự những buổi tiếp xúc với công chúng. Lúc đó, Bộ Y tế có mở một Hội nghị của Ngành. Hội nghị sơ tán ở huyện Gia Lộc, Hải Dưong. Bác Phạm Ngọc Thạch cũng về dự. Lúc bấy giờ, tôi mới học lớp 3, nhưng đã in khá nhiều thơ, nên được Hội nghị mời đến đọc thơ, nói chuyện thơ suốt hai tiếng đồng hồ. Bác Phạm Ngọc Thạch mừng lắm. Bác tặng ngay tôi một món quà, bác gọi là món quà nhỏ. Đó là cái hộp đựng thuốc lá và cái bật lửa bằng xăng. Bác còn giơ cao món quà bật lên ngọn lửa cho mọi người thấy. Bây giờ mà nghĩ lại, có thể có người sẽ thấy buồn cười, vì ông Bộ trưởng Bộ Y tế, một thầy thuốc lừng danh mà lại mang cái hộp thuốc lá với bật lửa tặng trẻ con. Người lớn muốn khuyến khích trẻ con hút thuốc lá chăng? Nhưng bác Thạch có gì ở trong túi đâu, mà bác lại muốn biểu hiện tấm lòng yêu con trẻ của mình. Hộp thuốc và bật lửa là vật dụng đáng giá nhất mà bác có. Những năm đó, dân mình nghèo lắm, đến cả Bác Hồ cũng rất nghèo. Tôi đứng dậy đáp lễ: " Cháu cảm ơn bác đã tặng cháu món quà nhỏ này. Cảm ơn bác đã tin thế hệ trẻ, đã trao cho thế hệ chúng cháu ngọn lửa cách mạng này. Chúng cháu thề sẽ mang ngọn lửa cách mạng âý đến đích cuối cùng, là xây dựng dựng thành công chủ nghĩa xã hội ngay trên chính quê hương nghèo khó của chúng ta, chứ không phải ở một thiên đường nào khác". Cả hội nghị vỗ tay rầm rầm, cho đó là câu nói hay. Nhưng tôi thì ngượng. Tôi biết mình đã nói dối. Vì ngọn lửa Cách mạng làm sao lại có thể đốt được bằng xăng. Nó đã được thắp sáng bằng tâm hồn, trí tuệ và xương máu của rất nhiều thế hệ, nên nó thiêng liêng lắm chứ không thể phàm tục như ngọn lửa xăng được. Xuống hội trường, bác Hồ Thiện Ngôn bảo: "Con nói hay lắm. Nhưng vẫn còn một chút sơ xuất. Con biết sơ xuất chỗ nào không?. Con lại gọi đấy là món quà nhỏ...". "Dạ, cháu nhắc lại câu bác Thạch nói, chính bác bảo đấy là món quà nhỏ...". "Người ta gọi là món quà nhỏ, nhưng mình nhận quà, mình lại phải nói đấy là món quà to lớn...". Bác Hồ Thiện Ngôn đã dạy tôi như thế. Bây giờ thì tôi hiểu tấm lòng bác Ngôn, bác dạy tôi trân trọng tấm lòng của người quý mến mình. Nhưng lúc ấy, tôi không hiểu được thế, chỉ nghĩ bụng: "Mình đã là một thằng nói dối, nhưng người lớn còn nói dối hơn..."
Bây giờ, khi đã có con gái, anh có mong con gái mình cũng sẽ là một thần đồng thơ như bố ?
Không. Cháu là con gái, nên tôi muốn cháu có một đời sống bình thường. Chỉ những người bình thường mới có hạnh phúc thứ thiệt. Thơ ca đâu có phải là cái gì ghê gớm mà cả mấy bố con phải phụng sự, theo đuổi. Nhà chỉ cần có một người làm thơ đã là quá đủ rồi. Ba đứa con của ông anh tôi, có đứa nào đi theo nghề của bố và chú đâu. Thậm chí chúng còn nhìn bố và chú như hai lão hâm hâm, hai lão hấp lìm.
Bây giờ, anh đã có nhiều thời gian để chiêm nghiệm lại những bài thơ của mình, anh thấy có bài thơ nào, câu thơ nào anh cảm thấy ngượng nhất mà không nói ra không? Ví dụ như câu: " ngu xuẩn nhất nhì - Là tổng thống Mỹ". Sau này anh đã phải sửa lại?
Có một nhà phê bình, gần đây trong một cuộc hội thảo, cũng bảo tôi nên giữ câu thơ như cũ cho có tính lịch sử. Khổ lỗi, tôi có phải là nhà sử học đâu. Tôi chỉ tuân theo giá trị đích thực của nghệ thuật thôi. Câu ấy sau này tôi có sửa, không phải vì mối bang giao của ta với Mỹ. Tôi muốn giữ cho hơi thơ được tự nhiên, trong sáng, hợp với không khí đồng dao của toàn bài chứ không phải vì Tổng thống Mỹ. Nói về Tổng thống Mỹ lúc ấy như thế, đến bây giờ vẫn đúng. Tổng thống Mỹ có thể thông minh ở đâu đấy, vì không thông minh thì chắc nhân dân Mỹ chẳng bầu ông ta, nhưng việc đánh Việt Nam, giết hại hàng ngàn trẻ con vô tội trong những năm chiến tranh thì không thể gọi là một việc làm thông minh được. Nếu ông Nich xơn sáng suốt thật sự thì ông ấy đã chẳng ngã ngựa giữa đường. Nhưng để lại câu thơ ấýy, cả bài mất đi sự hồn nhiên. Đây là cuộc chơi chỉ có chó mèo, cào cào châu chấu mà Tổng Thống Mỹ không thể can dự vào được. Sự có mặt của ông ta lại làm hỏng cuộc chơi.
Tại sao anh lại lấy tên tập thơ là Góc sân và khoảng trời?
Góc sân và khoảng trời không phải là độc quyền riêng của cậu Khoa. Trong đời, ai cũng có một góc sân và một khoảng trời. Góc sân là nơi ta chập chững bước những bước đầu tiên. Còn Khoảng trời là cái đích cao rộng mà ta cần phải vươn tới
Với anh, "góc sân" nào đã sinh một thần đồng thơ Trần Đăng Khoa? Và "khoảng trời", đích đến của nhà thơ là ở đâu? Từ góc sân ấy, anh đã đạt đến khoảng trời của mình chưa?
Khoảng trời của tôi chính là độc giả. Tôi rất mừng là bây giờ tôi có một lượng độc giả rất đông. Bằng cớ là năm nào sách tôi cũng in đi in lại và in với số lượng lớn và nối bản cũng nhiều. Đấy không phải là những tập thơ cũ, mà là những cuốn sách mới. Cái đích của tôi, khoảng trời tôi cần vươn đến là chinh phục độc giả đương đại. It nhiều, tôi cũng đã làm được điều ấy. Không chinh phục được độc giả đương đại thì đừng hy vọng sự đồng cảm của độc giả tương lai....
Hình như tuổi thơ với hình bóng cậu bé thần đồng quá lớn, nên sau này mỗi khi nói về mình, anh đều cố ý tếu táo, cười cợt bản thân cho hình bóng ấy "nhẹ vía"?
Không phải đâu. Đó chỉ là đánh giá của một vài người theo lối phê bình quán tính, phê bình a dua, chứ tôi thấy cậu Khoa ngày xưa cũng bình thường thôi. Câu thơ mà người ta cứ khen cậu: Ngoài thềm rơi chiếc lá đa, tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng" thực ra chỉ được có một chữ, là chữ ‘mỏng". Đó chỉ là câu thơ viết bằng tai. Loại thơ ấy, vung tay là viết được. Sau này tôi viết "Tiếng chuông ngàn tuổi tỏ mờ trong mây" , hay "Tháng năm lừng lững đi qua" thì cũng vẫn bút pháp ấy. Tôi lại thích những câu không thể dùng tai mắt mà viết được. Đại loại: Cái còn thì sẽ còn nguyên - Cái tan thì tưởng vững bền cũng tan... Hoặc Mái gianh ơi hỡi mái gianh - Ngấm bao mưa nắng mà mà thành quê hương. Đó mới là những câu thơ không dễ viết. Đó toàn là những câu thơ viết thời "về hưu" đấy. Vì thế, tôi thấy chẳng có gì phải sợ cái cậu Khoa thời cậu ta vẫn còn "đương chức".
Ước mơ lớn nhất của anh bây giờ là gì?
Tôi đã nói trong bài thơ "Gửi bác Trần Nhuận Minh": Giờ thì em đã chán - Những vinh quang hão huyền - Chỉ muốn làm mây trắng - Bay cho chiều bình yên...Tôi không õng ẹo, làm duyên làm dáng. Tôi nói rất chân thành đấy. Với tôi, danh tiếng là vô nghĩa. Rất vô nghĩa.
Cũng trong bài "Gửi bác Trần Nhuận Minh" này, anh còn nói: "Bao nhiêu là giun dế- Đã khiêng vác em lên - Tên tuổi em xủng xoảng - Những mõ ran trống rền..." anh đã gửi gắm rất nhiều nỗi niềm về đời thơ của mình?
Cũng có người khó chịu về mấy câu thơ ấy. Họ tưởng tôi gọi độc giả là giun dế. Khổ lắm! Thượng đế đâu lại là giun dế được? Đấy chính là những nhân vật của thơ tôi thuở nhỏ. Cũng vì không muốn hiểu lầm mà tôi đã phải chú thích rõ như vậy ở cuối bài rồi. Chính giun dế, ếch nhái, kiến đen, chó vàng đã công kênh cậu Khoa, đúc cậu ta thành người nổi tiếng, thành cả "Thần đồng". Nhưng đấy chỉ là "Thần đồng" của ... giun dế thôi nhé!...
Cảm ơn nhà thơ Trần Đăng Khoa!
Đăng ngày 04/09/2008 |
Ý kiến về bài viết | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
|
No comments:
Post a Comment