Friday, November 28, 2008

Một lần đi phỏng vấn và những bài học (phần cuối)


Nhìn người lại nghĩ đến ta

Tình hình hoạt động khoa học ở nước ta trong những năm gần đây bắt đầu có nhiều chuyển biến tích cực. Các bộ liên quan đến hoạt động khoa học đã bắt đầu áp dụng những chuẩn mực quốc tế để trong việc đào tạo tiến sĩ và đánh giá năng suất của các nhà khoa học. Nhưng cách tổ chức các hoạt động khoa học ở nước ta, theo tôi, vẫn còn nhiều bất cập. Trong khi cả nước có một trung tâm khoa học và công nghệ, thì các bộ, thậm chí các cục thuộc chính phủ, cũng có những viện nghiên cứu riêng. Các nghiên cứu khoa học vẫn chủ yếu được thực hiện tại các viện nghiên cứu, trong khi đó đóng góp các đại học còn quá khiêm tốn dù ở đây có đội ngũ giáo sư và nghiên cứu sinh khá hùng hậu. Đó là chưa kể đến tình trạng chảy máu chất xám rất trầm trọng ở trong nước, với nhiều nghiên cứu sinh không chịu (hay không được tạo điều kiện & cơ hội) về nước tham gia nghiên cứu. Rõ ràng, nhu cầu tổ chức lại đội ngũ nghiên cứu khoa học là rất cấp bách trong môi trường cạnh tranh như hiện nay.

Hiện nay, có nhiều mô hình tổ chức, và kinh nghiệm từ các nước có nền khoa học tiên tiến như Mĩ, Âu châu, Úc và Canada có thể cung cấp cho chúng ta những mô hình có ích. Theo các mô hình này, các viện nghiên cứu nhỏ hay trung bình (dưới 50 người) của các bộ và cục nên sáp nhập với các đại học, nhưng vẫn giữ định hướng nghiên cứu của họ. Cách làm này vừa tạo ra môi trường để các giáo sư trong trường cộng tác với viện nghiên cứu, và sử dụng các nhà khoa học của viện trong công tác giảng dạy và đào tạo nghiên cứu sinh.

Qui trình phân phối ngân quĩ cho nghiên cứu khoa học cũng cần nên xem xét lại, hay tốt nhất là thay đổi. Hiện nay, các bộ như Bộ y tế ra đề tài nghiên cứu như “đơn đặt hàng” và các nhà nghiên cứu đệ đơn xin ngân sách nghiên cứu. Theo tôi, cách làm theo kiểu đơn đặt hàng này quá máy móc, công thức hành chính, làm hạn chế tầm hoạt động của nhà nghiên cứu. Với cách làm này, nếu một nhà nghiên cứu không có kinh nghiệm làm theo đơn đặt hàng của bộ chắc sẽ … thất nghiệp. Các nhà nghiên cứu nên được khuyến khích tự do tìm tòi và thực hiện những nghiên cứu mà họ muốn. Tất nhiên, dự án các nghiên cứu này phải được duyệt nghiêm chỉnh, và cho dù họ có muốn theo đuổi công trình nghiên cứu, nhưng không chứng minh được khả năng và triển vọng thành công thì công trình sẽ không được yểm trợ.

Một trong những vấn đề mà Nhà nước hay nhắc đến trong năm qua là phương thức nào để thu hút các nhà khoa học gốc Việt ở nước ngoài về nước tham gia nghiên cứu. Bàn thảo cũng đã nhiều, nhưng việc thực hiện vẫn chưa đi đến đâu. Theo tôi, một cách để tạo điều kiện cho các nhà khoa học Việt Nam ở nước ngoài về nước là làm như Úc, tức là thiết lập các chương trình fellowship. Các fellow được bổ nhiệm sẽ được sung vào các trường đại học và viện nghiên cứu, và họ được tạo điều kiện ưu tiên cho nghiên cứu khoa học. Tất nhiên, các fellow này phải có chương trình nghiên cứu khả thi và các chương trình này phải được bình duyệt một cách nghiêm chỉnh như cách làm ở Úc hay ở Mĩ.

Trong hoạt động văn hóa nghệ thuật, chúng ta có những danh hiệu như “nghệ sĩ ưu tú”, “nghệ sĩ nhân dân” để ghi nhận những đóng góp của các nghệ sĩ có đóng góp quan trọng vào đời sống văn hóa nghệ thuật của quốc gia. Trong hoạt động giáo dục, các trường đại học ngoài những những chức danh như “giáo sư”, “phó giáo sư”, “giảng viên”, còn có những danh hiệu như “nhà giáo ưu tú”, “nhà giáo nhân dân” để ghi nhận những cống hiến của họ cho xã hội. Nhưng trong hoạt động khoa học, chúng ta chưa có một chương trình nuôi dưỡng các nhà khoa học ưu tú. Tôi không đề nghị Nhà nước phải có những danh hiệu như “Nhà khoa học ưu tú” hay “Nhà khoa học nhân dân” (vì tôi nghĩ những danh hiệu như thế mang tính hình thức quá); tôi chỉ đề nghị Bộ khoa học và công nghệ cùng với Bộ Y tế hay Bộ Giáo dục và Đào tạo lập ra những chương trình để nôi dưỡng các nhà khoa học ưu tú, những người đóng vai trò “hoa tiêu” cho nghiên cứu khoa học của nước nhà.

Như có lần phát biểu trước, nước ta đang hội nhập quốc tế, và theo tôi hội nhập phải bắt đầu từ nghiên cứu sinh và các nhà khoa học trẻ. Chúng ta đang có một lực lượng nhà khoa học trẻ được đào tạo từ nước ngoài, nhưng tiềm năng của họ chưa được khai thác vì nhiều người chưa có cơ hội nghiên cứu khoa học. Chúng ta cần có một ngân quĩ hay chương trình để tập trung các nhà khoa học trẻ và nâng đỡ họ thành những nhà khoa học quốc tế. Ở các nước tiên tiến và Tây phương, Nhà nước có khá nhiều chương trình huấn luyện hậu tiến sĩ, và các quĩ dành cho các nhà khoa học trẻ “đang lên”, tức có tiềm năng trở thành lãnh đạo trong tương lai. Tôi tin rằng những tiêu chuẩn của Úc rất cần được tham khảo khi thiết lập một chương trình như thế.

Hết.

No comments:

Post a Comment