Friday, November 28, 2008
Một lần đi phỏng vấn và những bài học (phần 2)
Phỏng vấn
Năm năm trước tôi đã từng trải qua một lần phỏng vấn, và lần đó tôi thất bại. Tất nhiên, một lần thất bại là một kinh nghiệm chẳng mấy gì vui, nếu không muốn nói là rất “đau”. Đau chẳng phải vì mất việc làm (chẳng có ứng viên nào mất việc, vì họ đều là những giáo sư thành danh cả) nhưng vì một lần thất bại như thế làm tổn thương đến danh dự và niềm tự hào của họ, nhất là đối với những giáo sư cao tuổi và có tiếng trên trường quốc tế (giáo sư nào mà không có tự hào). Nên nhớ rằng hầu hết các ứng viên đều là những giáo sư, có không ít người là chủ nhiệm một bộ môn, lãnh đạo một nhóm nghiên cứu, thậm chí có người là viện trưởng viện nghiên cứu, v.v… Riêng tôi thì phải nói là có “đau”, nhưng chẳng thấy tổn thương gì cả vì tôi không mang trong người cái “tôi” quá lớn như nhiều đồng nghiệp khác. Có lẽ lớn lên với câu nói của ông bà “thua keo này, bày keo khác”, nên tôi vẫn kiên trì theo đuổi mục tiêu “lấy” cho được cái NHMRC fellow. Sau khi chuẩn bị cẩn thận cả 5 năm trời, lần này tôi quyết định đệ đơn xin chức fellow của NHMRC. Sau 4 tháng chờ mong bình duyệt, tôi nhận được thư mời đi phỏng vấn, kèm theo một vé máy bay. (Hội đồng NHMRC sẵn sàng trả vé máy bay và khách sạn để phỏng vấn ứng viên ở xa).
Năm nay, ngoài tôi ra, trường tôi có 6 ứng viên khác cũng được mời phỏng vấn, mà trong số này 4 người xuất phát từ Viện nghiên cứu Garvan của tôi. Được tin này và rút kinh nghiệm từ mấy năm trước, trường đại học chuẩn bị cho “gà nhà” rất cẩn thận. Vì có liên quan đến danh dự của trường, cho nên trường đại học rất quan tâm và hết lòng giúp đỡ chúng tôi. Trước hết, trường mời một chuyên gia về truyền thông (communication) đến giảng cho chúng tôi về những kĩ thuật, kĩ năng trong việc trả lời phỏng vấn, thậm chí cách thức, điệu bộ trong khi phỏng vấn. Sau đó, trường cho mời một NHMRC fellow đến nói về kinh nghiệm của ông sau các cuộc phỏng vấn, và trực tiếp hướng dẫn chúng tôi cách trả lời những câu hỏi cụ thể. Sau cùng, trường tổ chức những cuộc phỏng vấn diễn tập (rehearsal interview) cho từng ứng viên. Nói là “diễn tập”, nhưng cách thức họ làm hoàn toàn giống như một cuộc phỏng vấn thật! Qua những diễn tập này, chúng tôi học rất nhiều kinh nghiệm, có người thậm chí còn viết ra hàng chục câu hỏi khả dĩ và … học thuộc lòng cách trả lời! Trước khi đi phỏng vấn, hiệu trưởng đại học còn gửi cho chúng tôi mỗi người một email với lời chúc may mắn!
Qua nhiều tuần chờ đợi, ngày phỏng vấn thật cũng đến. Dậy sớm từ 4 giờ sáng và ôn bài. Trên đường lái xe ra phi trường trong lúc cả thành phố còn ngủ, tôi không cách nào xua đuổi được những câu hỏi sẽ gặp phải trong kì phỏng vấn này. Thật là khổ! Tôi đón chuyến bay sớm nhất để đến Thành phố Melbourne. Buổi sáng ở phi trường Melbourne nhộn nhịp làm sao. Hình như ai cũng quá bận bịu với công việc của họ, chẳng ai quan tâm đến một kẻ đang đi tìm sự nghiệp như tôi! Trên đường từ phi trường về khách sạn (lần này, NHMRC tổ chức phỏng vấn tại một khách sạn 5 sao), tôi tìm cách bắt chuyện với anh tài xế taxi để tìm cách quên một cuộc “chiến đấu” sắp đến. Anh tài xế taxi tử tế chia tay tôi với câu nói đầy tình cảm: “Tôi thành thật chúc giáo sư may mắn và hi vọng ông sẽ thành công”. Tôi cám ơn anh và thầm nhủ lòng có ai muốn thất bại đâu, nhưng cuộc đời này thành bại là chuyện thường tình mà!
Tôi vẫn còn sớm 45 phút. Nhân viên tiếp tân của NHMRC mời tôi chờ trong đại sảnh với các ứng viên khác. Chỉ có 3 ứng viên người Á châu, còn lại là dân “Tây” cả. Phòng chờ rất tiện nghi, với các điểm truy cập internet, cà phê, trà, thức ăn sáng, báo chí, tivi, v.v… Tôi để ý thấy chẳng ai xem tivi hay đọc báo cả; ai cũng chăm chú đọc tài liệu, mà tôi đoán là các bài phỏng vấn mẫu hay đang … ôn bài. Nhiều người trẻ tỏ ra bồn chồn, dù vẫn cố giữ trên mặt một nụ cười tươi. Cũng có những vị tóc bạc trắng đang chăm chú nhìn vào màn ảnh máy tính với vẻ nghiêm nghị thường ngày của các sếp. Tôi bắt chuyện với một đồng nghiệp cỡ tuổi tôi, đến từ Nam Úc, và được biết đây là lần phỏng vấn thứ 3 của anh, nhưng anh thú thật là vẫn thấy hồi hộp. Riêng tôi thì không thấy hồi hộp gì cả, vì đã qua một lần phỏng vấn, và tôi cũng từng phỏng vấn người khác. Hơn thế nữa, lần này tôi được các chuyên gia “tập huấn” quá kĩ càng, và trước khi đi phỏng vấn, tôi đã tìm hiểu về 6 thành viên trong ủy ban phỏng vấn, xem qua thành tích khoa học của họ, kể cả những bài báo và tập san họ công bố, và thấy mình tự tin hơn, bởi vì nếu nói về khía cạnh thành tựu khoa học và đẳng cấp thì 4 trong 6 người này có thể là cấp dưới của tôi, còn 2 người kia thì cao hơn tôi một cái đầu. Có được sự tự tin hay niềm “kiêu hãnh” này cũng quan trọng trong việc đương đầu với thành viên của ủy ban phỏng vấn.
Tôi bắt chuyện một ứng viên khác từ Sydney, đang giữ chức giáo sư y khoa ở Đại học Sydney, và được biết nhiều chuyện bi hài trong phỏng vấn mà anh từng trải qua với tư cách là thành viên trong ủy ban phỏng vấn. Chẳng hạn như có một cuộc phỏng vấn hi hữu, mà trong đó ứng viên là một giáo sư 68 tuổi, một tên tuổi lớn (hay nói theo ngôn ngữ ta là thuộc vào hàng “cây đa cây đề”). Cuộc phỏng vấn trôi chảy, đến khi một thành viên trong ủy ban hỏi nửa đùa nửa thật rằng bao giờ thì ông định về hưu. Ông ứng viên giáo sư nổi nóng, tay đập mạnh xuống bàn một cái “rầm”, ông đứng lên chỉ tay vào vị đặt câu hỏi và giận dữ quát: “Tại sao ông dám hỏi tôi câu đó? Ai cho phép ông hỏi câu đó? Ông có biết phân biệt tuổi tác là bất hợp pháp không? Ông muốn về hưu thì cứ về, đứng có hỏi tôi bao giờ về hưu, nghe chưa? Đó là một sự xúc phạm! Ông nợ tôi một lời xin lỗi. Trời ơ! Nếu không có gì để hỏi tiếp thì tôi sẽ bước ra khỏi phòng này. Tôi còn nhiều việc phải làm.” Vị thành viên đặt câu hỏi xúc phạm đó tái mặt, ủy ban im lặng cả phút đến khi vị chủ tọa chính thức xin lỗi, ông ứng viên mới chịu ngồi xuống. Ấy thế mà ông giáo sư đó được bổ nhiệm chức NHMRC fellow. Câu chuyện thật thú vị và cho thấy ủy ban tuyển dụng không quan tâm đến vấn đề xung đột cá nhân, và họ hoàn toàn công minh.
Đang vui vẻ với câu chuyện tôi gần quên giờ mình sắp được phỏng vấn! Người đến mời tôi vào phỏng vấn là một giáo sư tên GL ở Melbourne. Tôi nhận ra ngay vì trước khi phỏng vấn, NHMRC công bố danh sách, hình ảnh, nơi công tác và chuyên môn của 6 thành viên trong ủy ban phỏng vấn. Giáo sư GL tự giới thiệu, thân mật bắt tay tôi, và hướng dẫn tôi vào phòng họp. Trên đường đi, anh ta nói đùa chuyện thời tiết, chuyện bầu cử liên bang sắp tới, hoàn toàn không đã động gì đến chuyện tôi sắp đối phó.
Phòng phỏng vấn khá rộng, được bố trí một cách ấm cúng. Đèn “downlight” với ánh sáng vừa phải, máy sưởi đang chạy (Úc đang vào mùa đông), và trên bàn được bày biện các loại nước uống (tất nhiên là không có rượu bia). Cách họ bố trí bàn ghế cũng đáng ghi nhận ở đây. Tôi được bố trí ngồi một bàn riêng; đối diện tôi là bàn của vị chủ tọa cuộc phỏng vấn (tức là chair), hai bên là bàn của các thành viên, trong đó có một người là phát ngôn viên (spokesperson) của cuộc phỏng vấn. Phía góc trái của phòng là một người thư kí với máy tính cầm tay và máy thu âm. Nhiệm vụ của người thư kí này là thu âm lại tất cả những trao đổi trong cuộc phỏng vấn, để phòng sau này nếu có người khiếu nại thì họ sẽ có bằng chứng để giải quyết thỏa đáng và công bằng cho đôi bên.
Sau khi mời ngồi và tự giới thiệu, người phát ngôn nói qua về các qui định trong cuộc phỏng vấn. Theo các qui định này, cuộc phỏng vấn chỉ diễn ra đúng 30 phút (tuy trong thực tế có khi dài hơn khoảng 5 phút là tối đa); ứng viên (tức là tôi) có quyền phản đối câu hỏi, nhưng không có quyền cãi lại với ủy ban (vì họ không có thì giờ đễ tranh luận); ứng viên phải trả lời ngắn gọn, đi thẳng vào vấn đề, không nên dài dòng lí giải hay biện minh; ứng viên có 5 phút để hỏi ủy ban về những vấn đề mình quan tâm; v.v… Tôi để ý thấy mỗi người đều có một chồng khá dầy về hồ sơ của tôi với những tờ giấy vàng, đỏ, xanh khắp nơi, mà tôi đoán có lẽ họ đang “chấm” đơn mình đâu đó hay vấn đề gì đó.
Mở đầu cuộc phỏng vấn, giáo sư chủ tọa yêu cầu tôi trình bày lí do tại sao tôi đệ đơn xin bổ nhiệm NHMRC fellow, và ông còn nói thêm rằng tôi chỉ có 2 phút để trình bày câu chuyện của mình! Theo kinh nghiệm cá nhân và của nhiều người khác, đây là “câu hỏi” không có câu trả lời, và họ muốn đánh giá cách tôi trình bày ý tưởng có mạch lạc, khúc chiết, và hệ thống không. Vì biết rằng họ muốn đánh giá xem tôi có đáp ứng các tiêu chuẩn của một NHMRC fellow hay không, nên tôi phải sử dụng 2 phút này để trình bày trường hợp của mình hoàn toàn phù hợp với các mục tiêu mà chương trình fellowship đã đề ra.
Theo sau câu hỏi đó, là hàng loạt câu hỏi từ các giáo sư thành viên trong ủy ban phỏng vấn. Vị giáo sư chủ tọa chăm chú nhìn tôi, đôi khi khoanh tay nhìn tôi trả lời với ánh mắt cười thân thiện (chắc là đang thông cảm cho tôi chăng), và thỉnh thoảng ghi xuống giấy điều gì đó. Tôi thấy ông thường xuyên nhìn xuống đồng hồ một cách kín đáo, như để kiểm tra xem tôi có quá giờ hay không. Họ hỏi tôi những câu hỏi như sau:
Nói cho chúng tôi nghe 3 công trình tiêu biểu của ông đã làm thay đổi hay khác biệt (made a difference) trong chuyên ngành. Ông có 2 phút để nói!
Những bài xã luận và review này là do ông tự nguyện viết hay tập san mời ông viết? Ông có bằng chứng nào cho chúng tôi thấy là họ mời ông viết không?
Các nhóm nào trên thế giới đang là đối thủ cạnh tranh của ông, và ông đánh giá khả năng cạnh tranh của ông trên trường quốc tế ra sao?
So với những người làm trong ngành của ông trên thế giới, ông có biệt tài gì hay kĩ năng gì đặc biệt để đảm bảo tính độc nhất vô nhị trong các công trình của ông?
Nếu tự đánh giá, ông có thể cho chúng tôi biết ông đứng vào hạng nào trên thế giới trong chuyên ngành của ông?
Ông có nghĩ rằng chất lượng các ấn phẩm khoa học của ông đáp ứng yêu cầu của một NHMRC fellow không? Tại sao?
Ông có kế hoạch gì để nâng cao năng suất khoa học hay chất lượng nghiên cứu trong tương lai?
Chiến lược trong 5 năm tới trong việc đào tạo của ông là gì?
Ông có kế hoạch nào khác để nâng cao tài trợ cho nghiên cứu không?
Nói cho chúng tôi nghe về hoạt động của ông trong các hội đoàn chuyên môn?
Ông phục vụ trong nhiều ban biên tập, vậy thời gian đâu để làm nghiên cứu? Nếu chúng tôi nói “Ông chẳng làm gì cả, phần lớn là nghiên cứu sinh làm và ông chỉ đứng tên” như thế có công bằng không?
Trong các hội nghị ở nước ngoài mà ông tham dự với tư cách người nói chuyện hay khách mời, ai trả chi phí cho ông?
Quan hệ giữa ông và các công ti dược như thế nào?
Tại sao chúng tôi phải cung cấp tài trợ và bổ nhiệm ông vào chức vụ NHMRC fellow, khi ông đang giữ chức giáo sư ở trường ông?
Ông viết trong đơn rằng ông từng về và giúp cho đồng nghiệp Việt Nam. Tại sao ông giúp Việt Nam? Có công bằng không nếu chúng tôi cung cấp tiền fellowship cho ông để ông đi giúp cho Việt Nam?
Nghiên cứu của ông đem lại lợi ích gì cho y học và khoa học của Úc?
Ông có đóng góp gì vào chính sách khoa học của Úc hay nước ngoài?
Nói chung, những câu hỏi không khó trả lời và đều nằm trong dự kiến của tôi. Thật ra, tôi đã chuẩn bị cho những câu hỏi khó hơn, gai góc hơn về tài trợ, nhưng may mắn thay họ không hỏi. Vấn đề tài trợ rất quan trọng vì nó liên quan đến vận mệnh của một nhóm nghiên cứu. Nếu liên tiếp mất tài trợ cho nghiên cứu, nhóm của tôi có thể bị xóa bỏ trên bản đồ khoa học thế giới, sẽ có người mất việc, và chính tôi cũng có thể mất việc vì không có tiền để trả lương cho nhân viên, và không có ai sẽ đứng ra điều hành các dự án của nghiên cứu sinh. Chính vì thế mà hiện nay, một phần lớn thời gian của những người như tôi tiêu ra viết đơn xin tài trợ, chứ trực tiếp làm nghiên cứu rất ít. Đó là chưa kể mỗi năm phải kí hợp đồng với viện nghiên cứu và trường đại học. Nếu trong năm, nhóm của tôi không làm ra “sản phẩm” (tức là bài báo khoa học hay bằng sáng chế), đến khi kí hợp đồng sẽ bị “hỏi thăm” ngay, và nếu trong vòng 2 năm mà vẫn không có sản phẩm thì họ sẽ không kí tiếp hợp đồng và nhiều rắc rối sẽ xảy ra sau đó. Nói chung áp lực tài trợ và ấn phẩm khoa học lúc nào cũng đè nặng lên vai người đứng đầu nhóm nghiên cứu. Hai áp lực này biến một giáo sư đứng đầu nhóm thành một doanh nhân khoa học, và nhóm nghiên cứu thành một đơn vị kinh doanh tri thức nhỏ.
Năm ngoái hai đơn xin tài trợ cho nghiên cứu của tôi đều thất bại. Đó là lần đầu tiên tôi bị thất bại thê thảm, vì mấy năm trước năm nào tôi cũng được tài trợ ít nhất là một dự án. Tôi chuẩn bị cho và nghĩ họ sẽ chú tâm vào sự thất bại năm ngoái của tôi, và họ sẽ nêu vấn đề nếu tôi thất bại một lần nữa thì việc họ bổ nhiệm tôi làm fellow cũng chẳng khác gì bổ nhiệm một người có chức danh mà chẳng có việc gì để làm! Tôi biết khía cạnh yếu của tôi, nhưng họ lại không xoay quanh khía cạnh này. Tôi hơi ngạc nhiên khi họ không lấy điểm yếu này để tấn công! Cũng có thể họ biết tôi sẽ thành công trong việc xin tài trợ cho năm nay, hay cũng có thể họ cho rằng tôi vẫn còn đủ kinh phí để tiếp tục “sống sót” thêm vài năm ...
Tôi từng biết trong quá khứ, họ có thể xoáy mạnh vào phần ấn phẩm khoa học với những câu hỏi rất “trực tiếp” như “chúng tôi thấy thành tích khoa học của ông mõng quá, ông nghĩ sao?”, hay “với chất lượng tập san như thế này, ông nghĩ là mình xứng đáng với chức danh NHMRC fellow không?”, hay “tình trạng tài trợ nghiên cứu của ông còn quá kém và có thể trong tương lai ông sẽ mất tài trợ, vậy nếu chúng tôi cho ông cái fellowship này, ông đâu có chuyện gì để làm, phải không?”, hay “trong vài năm gần đây ông công bố ít bài báo, vậy ông có bằng chứng nào để đảm bảo ông sẽ nâng cao năng suất trong mấy năm tới?” Trong trường hợp tôi, họ không hỏi tôi những câu như thế. Tôi đoán lí do họ không tập trung vào điểm này vì đó là “điểm mạnh” của tôi. Thật ra, như đã đề cập trên, 4 trong 6 người trong ủy ban phỏng vấn có số lượng và chất lượng ấn phẩm khoa học thấp hơn tôi khoảng 40-50%, chỉ có hai vị kia là hơn hẳn tôi đến 50%. Có lẽ họ thấy không thể “tấn công” tôi ở điểm này nên họ tìm cách làm cho rõ vị trí quốc tế của tôi.
Riêng hai câu hỏi về Việt Nam tôi thiếu chuẩn bị, và hơi chút lúng túng khi trả lời. Đến câu thứ hai về chuyện “công bằng” thì máu trong tôi bắt đầu nóng lên, và hỏi lại theo kiểu trả đũa là “tại sao tôi không giúp Việt Nam” vì đã định là sẽ “phản công” dữ dội, nhưng vị giáo sư chủ tọa đã kịp nhắc tôi: “Giáo sư Nguyễn, ông chỉ trả lời hay phản đối câu hỏi, ông không có quyền hỏi lại ủy ban!” Họ không xoáy thêm vào khía cạnh này.
Về thái độ, tôi đã được cảnh báo nhiều lần rằng, trong cuộc phỏng vấn, người ta sẽ rất thẳng thắn, và những khái niệm như lịch sự hay sỉ diện sẽ không có trong phòng phỏng vấn. Nói cho cùng, nhiệm vụ của ủy ban là tìm lí do để … loại bỏ ứng viên để đạt chỉ tiêu ngân sách do chính phủ đề ra. Tuy nhiên, lần này tôi thấy ngược lại: các thành viên trong ủy ban phỏng vấn rất thân thiện, lịch sự và lúc nào cũng cố gắng tạo ra một không khí hòa nhã, thân thiện với ứng viên. Có lẽ tùy thuộc vào cá tính của các thành viên trong ủy ban. Cũng có lẽ các thành viên trong ủy ban biết vị trí của mình trong mối tương quan với vị trí của ứng viên (tức là tôi) nên họ hành xử khác chăng? Tôi không biết, nhưng ngay cả những câu hỏi có thể xem là “tế nhị”, họ cũng sử dụng từ ngữ rất nhẹ nhàng, và nhất là cái “body language” (ngôn ngữ cơ thể) làm cho “cường độ tấn công” của câu hỏi giảm đi rất nhiều. Điều tôi chú ý trong lần phỏng vấn này là họ không trực tiếp phê bình về ứng viên, mà họ lại để cho ứng viên tự đánh giá mình. Chẳng hạn như trong lần phỏng vấn 5 năm về trước, họ hỏi tôi rằng “Ông công bố rất nhiều bài báo, nhưng có phải thật sự ông là người chủ trì các công trình đó hay chỉ là người tham gia công trình”, nhưng lần này, họ không hề đã động đến các ấn phẩm khoa học và vai trò của tôi, mà chỉ hỏi tôi tự đánh giá chất lượng ra sao. Có lẽ họ muốn chính mình nói ra, và sử dụng phát biểu của mình để đánh giá mình theo cái nhìn của họ.
Thành bại ...
Theo thống kê, mỗi năm NHMRC nhận được khoảng 2000 đơn, nhưng chỉ có 500 ứng viên loạt vào vòng 2 (phỏng vấn). Sau khi phỏng vấn, chỉ có 50 đến 100 ứng viên (tùy theo ngân sách trong năm và tùy theo chương trình) được bổ nhiệm làm NHMRC fellow. Tuy con số không nhiều, nhưng nó cũng tốn chính phủ từ 50 triệu đến 100 triệu đôla, một số tiền rất lớn. Tất nhiên, những người phụ trách điều hành NHMRC phải nói rằng nếu ứng viên không được bổ nhiệm thì điều đó không có nghĩa là ứng viên không thuộc vào hàng ưu tú. Nhưng có mấy ai nghe lời giải thích (mang chút an ủi) này! Trong thực tế, sự thất bại chẳng làm thay đổi công việc hay vị thế của ứng viên, vì họ vẫn là giáo sư, vẫn là những người lãnh đạo một nhóm nghiên cứu, vẫn hoạt động bình thường; có khác chăng là họ không được -- hay thất bại trong phấn đấu để được -- “kết nạp” vào câu lạc bộ các nhà khoa học ưu tú.
Hoạt động khoa học ở Úc mang tính cạnh tranh rất cao. Vì là nước nhỏ, cho nên việc cạnh tranh còn gay gắt hơn các nước lớn như Mĩ hay Anh. Nhưng là người sinh đẻ và trưởng thành từ nước ngoài như Việt Nam, sự cạnh tranh để được công nhận còn có phần cao hơn so với các ứng viên người bản xứ. Nói cách khác, để bằng người bản xứ, ứng viên người nước ngoài phải cao hơn họ ít nhất là một “cái đầu”. Tôi vẫn tự an ủi rằng điều đó mình phải chấp nhận thôi, vì đây đâu phải là xứ sở của mình, và nếu họ có làm khó mình thì cũng có thể hiểu được.
Tôi phải chờ đến tháng 9 mới biết kết quả. Không ai biết tương lai sẽ ra sao, và tôi cũng không biết kết quả là mình thành công hay thất bại. Tuy nhiên, tôi vẫn tự tin, và nghĩ rằng mình đã phấn đấu hết khả năng mình cho phép; do đó, dù có được bổ nhiệm làm NHMRC fellow hay không, tôi vẫn không có gì đáng tiếc. Cuộc đời này vô thường mà! Tuy nhiên, tôi muốn nhân cơ hội này kể lại kinh nghiệm của mình để đồng nghiệp có thể học hỏi. Có lẽ tôi là người đầu tiên thuật lại những kinh nghiệm “hậu trường” trên giấy trắng mực đen để đồng nghiệp đi sau học hỏi. Nếu tôi không thành công thì tôi vẫn hi vọng kinh nghiệm của tôi có thể giúp cho các bạn đồng nghiệp học hỏi và thành công. Nếu được như thế thì tôi vui mừng lắm rồi.
(Còn tiếp một phần nữa ...)
Labels:
Giao Duc,
Nguyen Van Tuan
Subscribe to:
Post Comments (Atom)
No comments:
Post a Comment