Lo Khe Journal; A Folk Tradition Fades, but the Melody Lingers On
Cam on Nguyen To Nguyen bai dich rat hay....
Late at night, when the silence of the village and the emptiness of her damp stone cottage become too deep to bear, Pham Thi Mui begins to sing -- familiar songs of her ancestors that transport her back into what seemed a time of certainty.
Her husband dead, her children grown, her era past, Mrs. Mui, 85, is alone in the dark on her broad wooden bed with only her past for company. She sings of mandarins and courtesans, love and loneliness, great wars and teasing dalliances, tapping the jaunty rhythms of her songs with the tip of one finger.
''Daytime is fine,'' she said one recent afternoon. ''There are plenty of people around. But at night I can't keep the sadness away. That's when I sing. If I had the strength I'd sing all through the night.''
The songs she knows could last her even longer than that. Mrs. Mui is one of the last living masters of Ca Tru, a 600-year-old form of sung poetry that was once hugely popular, inspiring famous poets and drawing lively crowds to musical contests.
It is one of the disappearing traditional art forms that Vietnamese are struggling to preserve as the modern world overwhelms them.
There was a time when great mandarins called Mrs. Mui to their courts to sing, when she was young and beautiful and knew how to play with words and tease her audience. Now her audience is all but gone. And she knows that once she dies, much of her art will die with her.
''There's almost no one left like me,'' she said. ''There's so much to teach, so much to save, so much work, so many different songs. Even if I can teach some of it, I can never teach it all. And who would come to listen?''
Three decades of war isolated most of Vietnam from the cultural changes that are sweeping it now. But the years of conflict also hastened the death of many of its traditions.
''It was wartime,'' said Mrs. Mui's daughter Nguyen Thi Sen, 43, who lives nearby. ''No one was thinking about singing. If we hadn't had the war, Ca Tru would be more popular now. Bombs, bullets, where was the time for Ca Tru? It all came to a stop for 30 years.''
Mrs. Mui herself stopped performing, consumed with survival. ''I thought I'd forget everything, but I found that I still remembered,'' she said. The warfare also broke a four-generation chain of Ca Tru singers that began with Mrs. Mui's great-grandmother. Her daughter, Mrs. Sen, never had a chance to learn the art, and today she is a farmer like the other women in the village, tending to her chickens, pigs and cow.
''I can sing some of the songs, but only for myself,'' she said. ''It's like farmland. If I had planted the seeds they would have grown.''
But then, four years ago, something happened that seemed to Mrs. Mui like a miracle. Her 12-year-old granddaughter, Lan, sitting over the cooking pots at her family's hearth, began tapping the Ca Tru rhythms with her chopsticks and singing to herself.
''I don't know why,'' said Lan, who is now 16. ''I heard my grandmother singing and I just remembered the words. It was easy.''
In this dark cottage, with its smell of mold and its aging calendars, where old women with black head scarves lounge and gossip through the afternoons, Lan is a shaft of sunlight with her crisp white blouse and impulsive smile.
''Wow, I'm tired!'' she exclaimed happily the other day as she entered, flopping down on her back beside Mrs. Mui with the confidence of a much-loved grandchild. ''The traffic is awful!'' She had just come by motorbike, an hour's dusty ride into the green rice fields from the bustle of Hanoi, where she had performed a bit of Ca Tru at a trade fair.
Not long ago, she said, she refused to sing at a school assembly because none of her classmates like this old music. ''All they like is pop,'' she said. ''The only people who really want to hear me sing are old people.''
And not so many of those. Perhaps two dozen old men and women gather on the last Sunday of every month at a small temple in Hanoi to try their hands at Ca Tru. Mrs. Mui sometimes travels there to perform for them, but what she sees there gives her little hope.
'Please tell me, is this music going to last forever?'' she said. ''If I knew it would last, I'd work harder to teach the young people. But I'm afraid it won't last. I know it won't last. And even if I teach the youngsters to sing, what audience will they have?''
A dutiful granddaughter, Lan prepared betel nut, a mild narcotic, for her grandmother and her friends, slicing the nut, mixing it with white lime paste and wrapping it in pungent leaves to chew.
As the old visitors drifted off to sleep on the broad wooden bed, Mrs. Mui began quietly to sing, a long-remembered tune about wine, flirtation and the contentment of intimacy.
''Wait, wait!'' cried her granddaughter, running to the cupboard for a notebook and a pen. ''O.K, grandma, go on. Do that again.''
As the old woman sang, Lan began to scribble, her lips moving in concentration.
''Slow down,'' she ordered. ''You're singing too fast.''
But Mrs. Mui couldn't stop. ''I have to sing this way,'' she said. ''It's the only way I can remember the words.''
At last the song ended and Lan laid her notebook on the table alongside the betel nut leaves. And as the old visitors dozed on the bed beside them, grandmother and granddaughter sat back content, sharing a smile.
A cool afternoon breeze drifted in through the small window. In the rich green rice fields that surround the village, amid the murmur of frogs, farmers bent and straightened under their conical hats.
Beyond them, trucks and buses jostled on the dusty road to Hanoi, and the breeze carried the distant sound of their horns.
~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~
Ban dich
Nhật ký Lỗ Khê: Một truyền thống dân gian
đang tàn lụi nhưng giai điệu còn dư âm[1]
Nguyên tác: SETH MYDANS, "Lo Khe Journal; A Folk Tradition Fades, but the Melody Lingers On", New York Times, 22 tháng 3 năm 2001
Nguyễn Tố Nguyên dịch
Đêm đã về khuya, khi sự yên ắng của xóm làng và sự trống vắng trong cái chòi bằng gạch của mình đã quá sức chịu đựng, bà Phạm thị Mùi bắt đầu hát, những bài hát quen thuộc của tổ tiên bà, chúng đưa bà trở về với quá khứ vàng son.
Sau khi chồng qua đời và con cái đều đã lớn, bà Mùi, năm nay 85 tuổi, chỉ còn lại một mình trong bóng tối trên chiếc phản gỗ với người bạn duy nhất là quá khứ. Bà hát về những ông vua bà hoàng, bà hát về tình yêu và nỗi cô đơn, về những cuộc chiến chinh và những thời thái bình, dùng đầu ngón tay gõ theo những tiết tấu khoan thai của bài hát.
“Ban ngày thì không sao”, bà nói, “vì có nhiều người xung quanh. Nhưng đêm đến, tôi không sao tránh được nỗi buồn. Đó là lúc tôi hát. Nếu có sức, tôi có thể hát suốt cả đêm.”
Có lẽ bà phải cần nhiều đêm như thế để hát hết những bài bản bà biết. Bà Mùi là một trong những nghệ nhân cuối cùng còn sống của Ca Trù, một hình thức ngâm thơ có lịch sử hơn 600 năm, đã có thời rất phổ biến, gợi cảm hứng cho nhiều vần thơ nổi tiếng, thu hút khá nhiều người đến với những cuộc thi hát.
Nó là một trong những hình thức nghệ thuật truyền thống đang bị mai một mà Việt Nam đang nỗ lực bảo tồn khi thế giới văn minh hiện đại đã phủ bóng lên chúng.
Đã có thời bà Mùi được những vị quan lớn cho mời vào cung để hát, đó là thời bà còn trẻ trung và xinh đẹp, khi bà còn biết chơi chữ và mua vui cho quan khách. Giờ đây, khán giả của bà đã đi hết. Và bà biết rằng một khi bà nhắm mắt xuôi tay, nghệ thuật của bà cũng theo bà mà đi.
“Chẳng còn lại ai như tôi cả”, bà nói, “Có quá nhiều thứ để dạy, quá nhiều thứ phải bảo tồn, quá nhiều việc phải làm, quá nhiều làn điệu khác nhau. Cho dù nếu tôi có thể dạy, tôi cũng chẳng bao giờ có thể dạy hết được. Và ai sẽ nghe Ca Trù đây?”
Ba thập kỷ chiến tranh đã cách ly Việt Nam khỏi những biến động về văn hoá, những thứ hiện đang lan tràn trên đất nước này. Nhưng chiến tranh cũng đã đẩy nhanh quá trình suy vong của nhiều loại hình nghệ thuật truyền thống.
“Đó là thời chiến tranh”, bà Nguyễn Thị Sen, con gái bà Mùi, 43 tuổi, hiện sống gần đó, nói “Chẳng ai nghĩ đến chuyện hát hò. Nếu không có chiến tranh, Ca Trù có lẽ sẽ còn phổ biến hiện nay. Bom rồi đạn, còn đâu chỗ cho Ca Trù. Nó đã chết 30 năm trước rồi.”
Bản thân bà Mùi cũng đã thôi biểu diễn, vất vả với cuộc mưu sinh. “Tôi cứ nghĩ là tôi quên hết rồi. Nhưng tôi nhận ra là tôi còn nhớ”, bà nói. Chiến tranh cũng là đứt mạch của một gia đình có truyền thống 4 đời làm ca nương, bắt đầu từ thời bà cố của bà Mùi. Bà Sen, con gái bà Mùi, chưa bao giờ có cơ hội học hát Ca Trù, và giờ đây, bà là một nông dân như bao phụ nữ khác trong cái làng này, suốt ngày bận bịu với lợn gà trâu bò.
“Tôi có thể hát được một vài làn điệu. Nhưng mà chỉ là để cho mỗi một mình tôi thôi,” bà nói, “ Nó cũng giống như làm ruộng ý mà. Nếu tôi gieo hạt thì rồi nó sẽ nẩy mầm.”
Rồi sau đó, cách đây 4 năm, một điều kỳ diệu đã xẩy đến với bà Mùi. Lan, đứa cháu 12 tuổi của bà, khi đang ngồi cạnh mâm cơm giữa nhà, đã dùng đũa gõ nhịp ca trù và bắt đầu tự hát.
Lan, năm nay 16 tuổi, nói: “Cháu cũng chẳng hiểu tại sao nữa. Cháu nghe bà cháu hát và cháu thuộc. Dễ ý mà”
Trong căn nhà tồi tàn tối tăm, với mùi bùn đất lưu cữu, nơi những người đàn bà lớn tuổi với những chiếc khăn vấn đầu màu đen tụ tập nói chuyện, Lan như là một tia sáng nhỏ với chiếc áo trắng và nụ cuời trên môi.
“Ôi! Cháu mệt quá”, Lan nói một cách hạnh phúc khi cô bước vào nhà, sà xuống cạnh bà Mùi với sự tự tin của một đứa cháu vốn được cưng chiều. “Đường sá thật là khủng khiếp”. Cô mới trở về bằng xe máy, một tiếng đồng hồ trên con đường bụi bặm băng qua những cánh đồng từ Hà nội ồn ã, nơi cô biểu diễn một vài tiết mục Ca Trù cho một hội chợ.
Cách đây chưa lâu, cô nói, cô đã từ chối biểu diễn trong trường học bởi vì chẳng có đứa bạn cùng lớp nào của cô thích nghe thứ âm nhạc cũ kỹ này cả. “Bọn nó chỉ thích nghe nhạc Pop thôi”, cô nói tiếp, “Chỉ có người già mới thích nghe cháu hát.”
Và cũng không nhiều người như thế. Có lẽ chỉ có khoảng gần 30 người lớn tuổi tụ tập trong một ngôi đền ở Hà nội vào các ngày Chủ nhật cuối cùng hằng tháng để thưởng thức ca trù. Thỉnh thoảng bà Mùi cũng đến đó biểu diễn. Nhưng những gì chứng kiến ở đó cho bà rất ít hy vọng.
“Hãy nói tôi nghe, liệu loại âm nhạc này sẽ còn mãi?”, bà nói, “Nếu như nó bền, tôi sẽ cố gắng hơn nữa để dạy cho lớp trẻ. Nhưng tôi sợ rằng nó sẽ không còn được lâu bền nữa đâu. Mà thậm chí nếu tôi dạy cho những đứa bé nhất, liệu những ai rồi đây sẽ là khán giả của chúng?”
Lan, đứa cháu của bà, chuẩn bị cau trầu cho bà và những người bạn. Cô bổ cau, trộn chúng với vôi trắng và gói chúng bằng những chiếc lá cay nồng. Khi những vị khách lớn tuổi đã lăn ra ngủ trên chiếc phản gỗ, bà Mùi bắt đầu lặng lẽ hát, bà hát một làn điệu cổ nói về rượu, về sự giao duyên và niềm vui của mối thâm tình.
“Đợi đã! Đợi đã bà ơi!”, đứa cháu hét lên, vội vàng chạy đến tủ lấy vở và bút. “Được rồi bà ạ! Bà hát lại đi!”
Khi bà Mùi hát, Lan bắt đầu ghi chép, môi cô mấp máy trong sự tập trung cao độ.
“Chậm lại tí bà ơi! Bà hát nhanh quá!” cô yêu cầu.
Nhưng bà Mùi không dừng lại. “Bà phải hát như thế này! Đó là cách duy nhất để bà có thể nhớ lời!” Bà Mùi nói.
Và cuối cùng, khi bài hát kết thúc, Lan đặt quyển vở xuống chiếc bàn cạnh cơi trầu. Và khi những vị khách lớn tuổi vẫn đang chợp mắt trên chiếc giường bên cạnh, hai bà cháu ngồi đó, mãn nguyện, họ cùng nhau mỉm cười.
Một ngọn gió chiều se lạnh lùa qua khung cửa sổ nhỏ. Trên những đồng lúa phù nhiêu xanh mướt xung quang làng, lẫn trong tiếng rả rích của ếch nhái là thấp thoáng những người nông dân với chiếc nón trên đầu.
Phía trên họ là những chiếc xe tải và xe buýt nối đuôi nhau trên con đường bụi bặm tiến về Hà Nội và tiếng còi của chúng theo gió vẳng lại từ phía xa.
[1] Tiêu đề bài báo lấy của Nguyễn Trương Quý trong quyển “Rock Hà nội & Rumba Cửu Long” của Jason Gibbs, Nguyễn Trương Quý dịch, NXB Tri Thức, 2008, trang 143.
No comments:
Post a Comment