Nguyễn Trần Bạt
Chủ tịch / Tổng giám đốc, InvestConsult Group
Hỏi: Ông là một người từng trải và chúng tôi rất mong ông trò chuyện giúp người trẻ suy nghĩ, nhìn nhận lại, đặt lại vấn đề về các giá trị nền tảng nhất cho cuộc sống. Mong ông cùng chia sẻ với độc giả về những điều họ cũng đang nghĩ, đang đi tìm và có thể chưa tìm ra hoặc tìm sai cho mình.
Trước hết xin hỏi ông về sự chuyển hướng của ông trong việc đi tìm kiếm lại những giá trị thực của mình trong xã hội hiện nay. Vấn đề mà người ta hay nói nhất hiện nay là sự sụp đổ niềm tin và những giá trị giả đang lên ngôi và đang lấn lướt những giá trị thật. Ông có thấy đau nỗi đau đấy không và bản thân những nỗi đau đó đã tác động đến ông như thế nào trong quá trình viết và suy nghĩ?
Trả lời: Tôi nghĩ thực ra không cần phải bi quan đến thế. Không phải các giá trị giả lấn át các giá trị thật mà những giá trị chúng ta tưởng là thật thua những giá trị mà chúng ta tưởng là giả. Thực ra những giá trị mà chúng ta tưởng rằng bị mất đi hoặc bị lấn át cũng vẫn là những giá trị giả. Bởi vì trong lịch sử của đất nước chúng ta, con người chưa bao giờ thật sự tiếp xúc với tự do và có các quyền về phương diện tự do, vì thế cái gì mà mỗi một cá nhân chưa có thật, không có thật và không có quyền có thật thì cái đấy được gọi là giả. Đôi khi người ta nhầm lẫn giữa tiền bố mẹ cho và tiền của mình. Chúng ta, những người Việt, trong hơn nửa thế kỷ có rất nhiều thứ được cho, bị cho và cho. Chính cái hỗn hợp 3 yếu tố được cho, bị cho và cho ấy là những thành tố tham gia vào cái quá trình tạo ra màu sắc thật của những cái mà chúng ta tưởng rằng mình có. Vì thế cho nên bây giờ có những cái chưa kịp định hình, những cái chưa kịp được sàng lọc, những cái chưa kịp được nhận thức, nó là bóng dáng của những cái sẽ có và chúng ta tưởng rằng những cái sẽ có ấy lấn át cái đã có và đang có.
Đôi khi con người, do nhịp điệu của công việc, nhịp điệu của sự sống, do sự chạy đua, do sự cạnh tranh, do sự bon chen mà vận hành đời sống tinh thần của mình với một tốc độ quá lớn và không phù hợp để người ta có thể hình thành các nhận thức. Chúng ta thấy rằng thường các học giả bao giờ cũng chậm rãi, vì khi nào người ta còn suy ngẫm thì người ta không chạy được. Tôi nghĩ rằng bây giờ đại bộ phận người Việt chạy nhanh quá nên không kịp suy ngẫm và do đó nhầm lẫn giữa những cái mình có với những cái mình sẽ có, giữa những cái mình thực có và những cái mình không thực có, và đôi lúc những người bi quan thì thường thấy cuộc sống đang diễn ra như là cái giả lấn át cái thật.
Tôi lấy ví dụ về chuyện bằng giả chẳng hạn. Bằng giả là một khái niệm có thật và bằng giả có vẻ lấn át nếu nhìn từ bên ngoài, nhưng nếu nhìn từ bên trong thì không phải như thế. Phải nói rằng, sự phân biệt thật giả trong thời buổi phát triển với tốc độ nhanh như thế này buộc con người phải có năng lực chuyên nghiệp để đánh giá, để phân biệt thật giả. Vì đại bộ phận con người không có khả năng ấy cho nên có một ấn tượng đem lại một cảm giác bi quan, đó là cái giả đang lấn át cái thật. Phải nói rằng, trong lịch sử hình thành loài người bao giờ con người cũng có cảm giác như vậy, các thời đại trước cũng có cảm giác như vậy. Vì thế, mới sinh ra những người như Vũ Trọng Phụng để viết "Số Đỏ", mới sinh ra những Khái Hưng, Nhất Linh v.v, luôn luôn tố cáo cái sẽ có như là yếu tố giả, chỉ có những cái mình thật có trong tay, mình từng trải với nó, sống chung với nó một thời gian đủ lâu thì mới xem cái đó là thật.
Tôi nghĩ rằng cái có thật chưa chắc đã tích cực và cái có giả chưa chắc đã tiêu cực. Cho nên, để nhận thức được câu chuyện này đòi hỏi con người phải có năng lực. Cái thiếu của xã hội chúng ta là chúng ta không có những nền tảng học vấn đủ để hướng dẫn con người trong việc lựa chọn, phân loại và đánh giá, cho nên gây cho con người một cảm giác không tự tin lắm trong việc quan trắc đời sống, và do đó gây ra một cảm giác bi quan không cần thiết.
Hỏi: Vậy theo ông, điểm mấu chốt trong những tác phẩm ông đã viết là tìm lại tự do cho chính mình và có quyền được lựa chọn?
Trả lời: Khẳng định tất cả các quyền cá nhân là một trong những điểm có chất lượng chiến lược để hình thành xã hội mà trong đó con người có thể tự tin được, con người có thể phân biệt thật giả được, con người có thể có bản lĩnh để sống và đối phó với những cái sẽ có. Chúng ta chưa có tự do, chúng ta chưa có ý niệm về tự do một cách rõ ràng. Một vài học giả, một vài trí thức lớn hoặc một vài nghệ sỹ lớn cũng cố gắng mô tả tự do một cách khái quát, nhưng biến thành các hệ thống tiêu chuẩn để định nghĩa khái niệm tự do và vai trò của nó đối với thân phận của mỗi một con người thì dường như ở Việt Nam chưa ai đặt ra vấn đề như vậy. Tôi là một trong những người có thể nói là hiếm ở Việt Nam cố gắng làm chuyện đấy, và tôi không dám nói là tôi đã thành công, nhưng tôi chắc chắn rằng sự cố gắng này là có thật.
Hỏi: Ông có gặp khó khăn gì trong quá trình tư duy để đặt lại những giá trị về tự do?
Trả lời: Đánh trận giả thì không có gì khó khăn cả. Cái khó khăn duy nhất là xung quanh tôi không có những bằng chứng về tự do, về các quyền tự do, cho nên tôi buộc phải suy tưởng, buộc phải tưởng tượng. Xung quanh tôi chỉ có hiện tượng vô chính phủ chứ không phải có tự do. Đi vệ sinh bậy ở ngoài đường chẳng hạn, hút thuốc lá trong rạp chiếu phim, nghe điện thoại trong nhà hát lớn chẳng hạn, họp chính phủ đôi lúc cũng thấy các bộ trưởng lén nghe điện thoại chẳng hạn, tất cả những thứ đấy là biểu hiện của sự vô chính phủ chứ không phải tự do.
Tự do là gì? Tự do là hoạt động tự nhiên của con người trong những điều kiện nó không dẫm đạp lên các quyền tự do của người khác. Tôi nghĩ rằng, ở Việt Nam có rất ít bằng chứng về tự do, hơn nữa lịch sử giáo dục của cá nhân tôi cũng rất không thuận lợi cho việc suy nghĩ và nghiên cứu khái niệm này. Phải nói rằng, để làm được một số việc ngăn ngắn, nho nhỏ trước mắt thì tôi cũng đã phải vượt qua chính lịch sử của bản thân mình, đặc biệt là lịch sử giáo dục.
Hỏi: Thời buổi hiện nay người ta đề cập đến từ khủng hoảng rất nhiều, khủng hoảng kinh tế, khủng hoảng tiền tệ, khủng hoảng trong đời sống tinh thần của cá nhân. Khi mà phương Tây quá khủng hoảng như thế thì họ quay về các giá trị của phương Đông.
Là một người phương Đông, ông thấy định nghĩa về tự do có sự hài hòa như thế nào trong triết lý phương Đông và triết lý phương Tây?
Trả lời: Tôi muốn đính chính lại về câu hỏi này. Phương Tây không khủng hoảng đến mức phải quay về các giá trị của phương Đông. Có thể có một vài người hoặc một cộng đồng phương Đông nào đó đi tìm phương Tây không được thì quay về phương Đông. Giống như người ta vào Sài Gòn mà không thể kiếm đủ tiền để chi tiêu theo tiêu chuẩn Sài Gòn thì đành phải quay trở lại Hà Nội. Phương Đông nói thẳng ra chưa bao giờ là chỗ quay về của bất kỳ ai ngoài chính phương Đông, và đấy là sự bất lực của phương Đông trong việc tiếp cận với phương Tây chứ không phải phương Tây quay về phương Đông. Đôi khi người ta cứ ngộ nhận và đấy là tình trạng thiếu thông tin. Phải nói rằng, chỉ cần áp dụng các kinh nghiệm, các nguyên tắc hay là các lý luận của phương Tây trong vòng từ năm 1978-2008, người Trung Quốc đã từ một nước nghèo khổ trở thành một nước khá giả, tôi không nói là một xã hội khá giả vì xã hội Trung Quốc còn lâu mới khá giả mà chỉ là một nhà nước khá giả. Những kinh nghiệm phương Tây có đã giúp một loạt các nước phương Đông ra khỏi bóng tối, ra khỏi hang hốc của mình.
Bây giờ phương Tây đang khủng hoảng, nhưng bất kỳ một sự phát triển nào cũng dẫn đến khủng hoảng và khủng hoảng như hiện nay là khủng hoảng tất yếu, là hệ quả của một sự phát triển quá nhanh của nền kinh tế thế giới, thậm chí nhiều hơn cả nền kinh tế là của tình trạng xã hội. Khi kinh tế đã khủng hoảng thì xã hội sẽ khủng hoảng theo, văn hóa cũng khủng hoảng theo, chính trị cũng khủng hoảng theo, và tất cả những chuyện ấy là dấu hiệu của sự phát triển chứ không phải là bằng chứng tiêu cực. Cuộc khủng hoảng này có thể bắt đầu từ phương Tây nhưng không phải là khủng hoảng của phương Tây mà là cuộc khủng hoảng của nhân loại, khủng hoảng toàn cầu, và phải khẳng định rằng không có nước phương Tây nào quay trở lại phương Đông sau khủng hoảng cả.
Câu hỏi này phản ánh một tâm trạng rất phổ biến và nếu không nhận thức được một cách rành mạch câu chuyện này thì phải nói thật là nhân loại mất phương hướng và người phương Đông tự nhiên trở thành tự mãn. Bây giờ có người nói rằng Trung Quốc bằng với Mỹ rồi, trong khi kể cả khủng hoảng thì thu nhập của người Mỹ cũng từ 40.000 đô la xuống 35.000 đô la, còn người Trung Quốc thì vẫn chỉ có một vài ngàn đô la thôi. Và thu nhập một hay một vài ngàn đô la ấy cũng chỉ tập trung ở một vài đô thị, còn 90% dân số nước CHND Trung Hoa vẫn tiếp tục nghèo đói theo tiêu chuẩn của phương Tây (tôi không nói theo tiêu chuẩn của những người nghèo đói trên thế giới). Phải nói rằng người dân Trung Quốc vẫn là người nghèo, có một số người Trung Quốc trở thành tỷ phú và tốc độ hình thành các tỷ phú rất lớn, nó phản ánh sự lạc hậu về mặt thể chế của Trung Quốc. Trong khi có hàng trăm triệu con người nghèo khổ thì bỗng nhiên có thêm một cách nhanh chóng dăm bẩy người trở thành tỷ phú, cái mặt ấy là mặt thể hiện sự tiêu cực nhiều hơn là tích cực.
Nếu chúng ta nhầm lẫn trong việc đánh giá tình trạng khủng hoảng hiện nay và nói rằng phương Tây sẽ trở lại phương Đông và viết điều đó lên báo thì người ta sẽ cười. Ngay cả người phương Đông cũng cười. Những người thành đạt ở phương Đông biết rất rõ là mình thành đạt bằng các phương thức phương Tây chứ không phải bằng phương thức phương Đông. Nói cách khác, người ta lợi dụng sự sắc sảo của phương pháp phương Tây và lợi dụng sự ngốc nghếch của đại bộ phận dân chúng phương Đông để thành công. Sự giàu có ở phương Đông được hình thành chủ yếu bởi hai nguồn như vậy.
Hỏi: Vậy theo ông nếu đặt lại những vấn đề nền tảng về tự do cũng như nền tảng về các phương thức thành công của người phương Tây thì ông sẽ đưa ra những điều gì?
Trả lời: Tôi nghĩ rằng tự do quan trọng ở chỗ nó làm cho con người cảm thấy có trách nhiệm với mình, có trách nhiệm với xã hội của mình, không bị áp đặt, không a dua, không theo ai cả, và khi xã hội có những sự thống nhất mang chất lượng tự giác về quyền lợi thì chi phí để quản trị xã hội ấy giảm xuống rất nhiều. Trong khi chúng ta giãy dụa về chuyện cải cách giáo dục thì ở phương Tây không có nước nào kêu khủng hoảng về vấn đề ấy cả. Tại sao phương Tây quay về với các giá trị phương Đông mà học sinh Việt Nam, học sinh Trung Quốc vẫn đi du học 500.000 -700.000 người một năm sang phương Tây? Người ta đi học cái cách thức của phương Tây và tận dụng sự ngốc nghếch của phương Đông để làm giàu, thậm chí để làm chính trị nữa chứ không chỉ để làm giàu. Có thể nói, nền tảng sự phát triển của một số cá nhân hạn hẹp ở phương Đông chính là những phương thức sắc sảo mà chủ yếu là học ở phương Tây cộng với sự thấp của dân trí. Nghiên cứu thị trường chứng khoán sẽ thấy rõ điều ấy.
Hỏi: Theo ông không có quyền tự do cũng chính là nguyên nhân lớn nhất làm cho phương Đông không phát triển?
Trả lời: Đúng thế. Điểm tập trung, điểm cô đặc nhất của toàn bộ các khuyết tật của một xã hội, trong đó có khuyết tật dân trí chính là thiếu tự do. Hay nói cách khác là không có điều kiện để hình thành các cá nhân. Đó là những đàn, những bầy được lãnh đạo, được chỉ huy và được kiểm soát, do đó con người không thể sáng tạo được và mảnh đất ấy trở thành mảnh đất vàng của những kẻ láu cá và cơ hội. Điều rất nhiều người than vãn hiện nay là chúng ta mất các giá trị văn hóa truyền thống. Tôi là người nghiên cứu các giá trị văn hóa, tôi có thể nói rằng không có hiện tượng ấy. Đấy là sự luyến tiếc của con người đối với bộ quần áo cũ, đấy không phải là bản sắc.
Tôi thấy cần phải nói rằng chúng ta không nên có khái niệm giữ gìn bản sắc. Văn hóa là một khái niệm tự nó, bản sắc là tự nó cho nên không đánh mất được, nó chỉ thay đổi cùng với đòi hỏi của cuộc sống, cùng với tốc độ tăng trưởng của cuộc sống. Ở những trạng thái chưa chín, ở những khía cạnh chưa chín của nhận thức của người quan sát cũng như của những người đang là thành tố để hình thành một tiêu chuẩn văn hóa mới thì người ta có cảm giác nó ngô nghê, nó kệch cỡm. Cảm giác kệch cỡm ấy sẽ mất dần cùng với sự phát triển, cảm giác luyến tiếc bản sắc cũng dần dần mất đi cùng với sự phát triển.
Sự phát triển cá nhân đích thực sẽ làm cho con người duyên dáng tại mỗi một phút của nó trong cuộc sống. Bởi vì chúng ta đi từ chỗ một bầy đàn đến một cá nhân cho nên trạng thái không tự tin ở giữa chặng đường dịch chuyển như vậy tạo cho con người một sự vụng về, lóng ngóng, thiếu tự tin và do đó chúng ta cảm thấy chúng ta mất mát. Có rất nhiều người cũng cố gắng lịch sự, ngồi thì không gác chân lên ghế, tiếp khách không chép miệng v.v, nhưng chỉ giữ gìn được lúc ban đầu, đến khi cơn lên rồi thì người ta lại nhai nhóp nhép, lại gác chân lên ghế, lại hút thuốc lào sòng sọc và bảo "thôi chúng ta lại quay về với những giá trị bản thể, với bản sắc". Đấy là sự đầu hàng các quá trình phát triển chứ không phải là sự mất mát bản sắc hay giữ gìn bản sắc. Có thể có nhiều người sẽ khó chịu với những gì tôi vừa nói, nhưng bản chất của nó là như thế, tôi không thể nói khác được.
Hỏi: Nhưng cũng có nhiều ý kiến cho rằng, sự vụng về, sự thô lậu trong cách ứng xử, cách sống là do không có sự chuẩn bị của mình trong một quá trình mà là một sự đột biến. Ông có đồng ý với ý kiến ấy không?
Trả lời: Cách đây mấy tháng tôi vừa xuất bản một quyển sách tên là "Cội nguồn Cảm hứng", trong đó tôi lý giải về khái niệm tự do, về cá nhân. Tôi nghĩ rằng sự vụng về có ở tất cả mọi người. Tôi kể một câu chuyện như thế này.
Cách đây mấy năm tôi có dự một lớp huấn luyện về Bảo vệ các quyền Sở hữu trí tuệ do cơ quan điều tra của chính phủ Hoa Kỳ là FBI tổ chức, giảng viên là chánh cảnh sát của thành phố Westminster. Tôi mời nhóm giảng viên ấy ăn cơm tối và ông chánh cảnh sát ấy nói rằng "Khi tôi đi sang đây vợ tôi xem tôi quay lại Việt Nam có thể chết nên vợ tôi rất bịn rịn và còn khóc nữa, nhưng sang đây tôi không những không chết mà còn được ngài mời cơm, nói chuyện thoải mái thế này" và ông ấy rưng rưng nước mắt. Cái đấy chính là sự lóng ngóng vụng về của người Mỹ khi đến Việt Nam, và khi chúng ta đến Mỹ chúng ta cũng lóng ngóng vụng về như vậy. Lóng ngóng, vụng về là trạng thái ban đầu của quá trình làm quen với một nền văn hóa và với một trình độ phát triển, ai cũng có điều ấy cả. Ai khi đến một nền văn hóa mới cũng có những lóng ngóng. Chẳng hạn khi đến Nhật Bản chúng ta vẫn quen xưng hô Lady and Gentlemen, nhưng ở Nhật Bản thì người ta không xếp Lady lên trước. Nếu chúng ta mang kinh nghiệm tiếp xúc với người phương Tây và người Mỹ vào áp dụng ở Nhật Bản thì chúng ta có thể phạm sai lầm vì nó không phù hợp với nền văn hóa Nhật. Khi va chạm với những môi trường văn hóa lạ bao giờ con người cũng có một trạng thái được gọi là lóng ngóng, vụng về, ngượng nghịu và cái đó là cái đáng yêu nhất của con người. Con người đáng yêu vào lúc họ lóng ngóng, vụng về, còn khi người ta trơ ra rồi, người ta mắt la mày lém, người ta nghênh ngang thì người ta không còn đáng yêu nữa.
Trạng thái làm quen giữa các nền văn hóa là trạng thái đáng yêu nhất mà loài người có. Ta biết rằng trong những gia đình quý phái ở phương Tây bao giờ cũng có những buổi vũ hội đầu tiên của cô con gái mới lớn. Một cô gái đến dự buổi vũ hội đầu tiên khi các chàng trai nhìn vào thì thế nào cũng nhún nha nhún nhẩy, thế nào cũng lóng ngóng. Cái lóng ngóng của một trinh nữ chính là vẻ đẹp lớn nhất mà con người có. Sự lóng ngóng của một nền văn hóa để tìm hiểu một nền văn hóa khác, để thích nghi với một nền văn hóa khác là sự lóng ngóng đáng yêu và chúng ta thấy buồn cười với mình, nhưng không ai nhìn chúng ta thấy buồn cười cả. Nếu được giải phóng rồi, cảm thấy tự do rồi thì chúng ta không phải áy náy về sự lóng ngóng của mình mà chúng ta thưởng thức sự lóng ngóng của mình. Rất nhiều cô trơ ra rồi, không còn lóng ngóng được nữa, bây giờ diễn lại trò lóng ngóng, bắt chước sự lóng ngóng của thời xa xưa ấy là khó hơn nhiều so với việc thể hiện sự từng trải.
Hỏi: Vậy là ông nhìn tất cả những sự dịch chuyển trong giai đoạn này cũng chỉ là một sự lóng ngóng rất đáng yêu?
Trả lời: Đúng thế. Đây là lúc người Việt ra khỏi làng, người Việt ra phố, dân thuyền chài men sông ra biển. Ví dụ cái lóng ngóng của một nhà thơ Việt Nam khi đối mặt với Shakespear chẳng hạn, tất cả những chuyện như thế đáng yêu lắm. Tôi thấy cuộc sống không bi quan đến mức như thế. Xét về phương diện sự thích nghi dần với tốc độ phát triển, với sự hội nhập của các cá nhân, tôi không thấy có gì đáng bi quan cả. Có thể thấy những người ăn mặc rất dữ dội nhưng nói chuyện vẫn rất nền nã, lễ phép. Cái vẻ đáng yêu không mất đi, cái giá trị cốt lõi của con người không mất đi cùng với sự hội nhập mà được thử thách bằng sự hội nhập. Cái đau đớn là chúng ta vẫn hiểu sai rằng nó mất đi cùng với sự hội nhập mà không hiểu rằng nó được thử thách bằng sự hội nhập.
Hỏi: Rất thú vị khi ông lý giải được những lo lắng của mọi người hiện nay là toàn cầu hóa thì sẽ đánh mất mình.
Trả lời: Chẳng ai đánh mất mình được, muốn đánh mất cũng không được. Nó là máu, là thịt, nó nằm trong gen, không mất được. Tôi kể câu chuyện thế này.
Trong một lần tôi đến Washington DC, buổi tối tôi đến ăn cơm ở một tiệm ăn Việt Nam và thấy ở đó có món bún riêu. Tôi rất ngạc nhiên khi thấy có món này và tôi hỏi ông chủ quán, một người Hà Nội lớn tuổi rất đẹp lão rằng "Bác có mắm tôm không?". Ông ấy nói rất nhỏ rằng "Có", rồi bê ra một đĩa mắm tôm nhỏ bảo rằng "cái này là nhà dùng để ăn riêng chứ không mang cho khách, nhưng anh hỏi thì tôi đưa". Tức là ông ấy cũng lóng ngóng khi thưởng thức cái món mình rất thích là mắm tôm trước mặt người Mỹ, cho nên ông ấy giấu đi để ăn riêng, nhưng khi gặp người thích ăn mắm tôm giống mình thì cũng không kìm được và thể hiện cái bản sắc thích mắm tôm của mình. Lúc trả tiền tôi đưa thừa 50 đô la, ông ấy trả lại tiền thừa nhưng tôi bảo rằng "Tôi cố tình đưa như vậy vì tôi muốn thưởng cho bác cái công đưa được mắm tôm đến đất Mỹ". Ông ấy cười và mời tôi ngồi lại uống rượu.
Con người có thể đánh mất các khía cạnh chính trị, nhưng bản sắc, chất lượng văn hóa thì không đánh mất được. Có thể một người yêu nước trở thành một kẻ bán nước, một người tích cực trở thành một kẻ tiêu cực trong con mắt của một số các nhà chính trị, nhưng cái đặc trưng văn hóa cá nhân thì không mất được, không thay đổi được.
Bởi vì chúng ta luôn có khuynh hướng đồng nhất văn hóa với chính trị cho nên chúng ta sợ, những nhà quản lý sợ mất cái yếu tố chính trị mà mình cần ở trong một con người, và vì không dám nói điều ấy nên họ kêu toáng lên về sự đánh mất bản sắc. Bản sắc là cái cớ để họ kêu la chứ bản sắc không mất được. Đây là một phát hiện rất quan trọng.
(Còn tiếp)
No comments:
Post a Comment