(ANTĐ) - Trước khi đến gặp ông, tôi đã đọc khá nhiều thông tin về ông, về những phương pháp đổi mới giáo dục, cơ mà vẫn e ngại không “đủ vốn” trò chuyện cùng ông... Tìm đến A17 tập thể Đồng Xa, người dân quanh vùng chỉ vòng vèo, đi mãi chẳng biết đâu mà lần... Nhưng khi hỏi địa chỉ của “ông giáo Thiền”, ai cũng nhiệt tình chỉ dẫn. Lên đến tầng 4, một cụ bà nhường đường cho tôi. Sau lời cảm ơn và cẩn thận hỏi thăm GS Lê Khánh Bằng, tôi nhận được một nụ cười hiền: Đấy là ông nhà tôi...
Cụ ông cao dong dỏng, khuôn mặt quắc thước ra mở cửa... GS Bằng là đây! Ông chẳng có vẻ gì của một người đã ngoài 80 tuổi, vui vẻ, nhanh nhẹn. Ông bảo: Chúng ta trò chuyện 20 phút thôi nhé. Chiều nay tôi có lớp...”.
Học ngoại ngữ bằng... “thiền”
Năm 2003, dân học ngoại ngữ và cánh sắp đi du học truyền nhau một phương pháp học rất lạ, “thiền” để học ngoại ngữ, và kết quả thì ngoài sức tưởng tượng. Nhiều người sau 1-2 tháng “luyện” theo phương pháp này đã tiến bộ trông thấy; một số giỏi đến mức có thể giao tiếp như người bản địa.
Hồi ấy tôi không tin và xem đó là một loại thông tin... vỉa hè. Tuy nhiên khi tiếp xúc với GS Lê Khánh Bằng, tôi “ngộ” ra một điều: Sức óc con người thật vô hạn, và con người có thể làm được cả những điều tưởng như... vô lý nhất. GS Bằng cho biết, từ những năm 1980, ông và nhiều đồng nghiệp đã nghiên cứu phương pháp “thiền”.
Gọi là “thiền” cho nó... dân tộc, chứ thực chất đó là một phương pháp tập trung suy nghĩ, tư duy không cho tạp niệm xen vào trong quá trình học tập, giúp ý chí sáng suốt, thanh thản, phát huy cao độ nội lực của con người. Cũng theo GS Bằng, cùng với sự lấn lướt của văn hóa nghe nhìn, giới trẻ hiện nay thường mất tập trung, dễ bị lệ thuộc vào các phương tiện kỹ thuật hiện đại, lười suy nghĩ và ghi nhớ kém.
Rất nhiều cử nhân, thạc sỹ chuyên ngành ngoại ngữ hẳn hoi nhưng khi giao tiếp, nghiên cứu khoa học có sử dụng ngoại ngữ đều rất yếu... Bên cạnh đó, phương pháp giảng dạy nhiều năm vẫn theo giáo trình, nặng về ngữ pháp mà ít gắn với thực tế cuộc sống, chưa nhiều tình huống vận dụng trao đổi ngôn ngữ với chính người bản địa.
Từ kinh nghiệm bản thân, học và giao tiếp tốt 6 ngoại ngữ và quá trình thử nghiệm trên nhiều đối tượng, học sinh tiểu học, THPT đến sinh viên, người cao tuổi, GS Bằng cho rằng: Việc nhiều người “mất” khả năng giao tiếp, sử dụng ngoại ngữ là do người đó chưa tạo nên vùng ngoại ngữ trong vỏ não.
Khi trẻ em học ngoại ngữ, trung khu ngoại ngữ được hình thành hài hòa trên vùng trung khu tiếng mẹ đẻ, song với người lớn tuổi học ngoại ngữ, 2 trung khu này tách biệt nhau.
Do đó việc khắc ghi lên vỏ não một vùng ngoại ngữ đòi hỏi quá trình tự học tập, đều đặn 1-2 giờ/ngày, lúc học chỉ được nghĩ và nói bằng ngoại ngữ để chủ động ức chế trung khu tiếng mẹ đẻ... Cách học đó sẽ tạo vùng ngoại ngữ trong vỏ não chỉ sau 5-6 buổi, mỗi buổi cách nhau 1 tuần.
5 bước chuyển vào trong (thư giãn và tập trung tư tưởng cao độ), đọc to 3-5 lần đúng trọng âm và ngữ điệu để tạo nên một khu vực hưng phấn mạnh; đọc to vừa, đúng ngữ điệu, tốc độ nhanh dần 3-5 lần; đọc mấp máy môi có âm thanh và ngữ điệu nhỏ 3-5 lần, tốc độ nhanh nhất; đọc trong óc, môi không mấp máy nhưng vẫn phải cảm thấy âm thanh và ngữ điệu cho đến khi thuộc, tốc độ ngày càng cao; đọc trong óc nhiều lần để hằn sâu vào trong vỏ não theo trình tự: nhẩm đọc trong óc từ từ sau đó tăng dần lên đến mức nhanh nhất... 5 bước chuyển ra ngoài (đọc trong óc; đọc mấp máy môi; đọc to vừa, tốc độ nhanh và rất nhanh; đọc to đúng trọng âm, đúng ngữ điệu với tốc độ nhanh nhất không sai sót; tập trung tư tưởng cao độ, viết ra giấy với tốc độ nhanh nhất, tối thiểu 2 dòng/phút hoặc trình bày thật lưu loát, diễn cảm)... Vấn đề cần trình bày sẽ được nghe, nói, đọc, viết ra trong óc vài lần, tạo nên một chuỗi các yếu tố tư duy, khi bạn động đến một mắt xích nào đó thì cả chuỗi đó sẽ bật ra ngay lập tức. Đó chính là “đột phá một điểm, khai thông toàn diện”. |
GS Bằng đưa cho tôi tập sách mà ông tâm huyết viết ra, có thể đây là một trong những phương pháp dạy, học hiệu quả và hấp dẫn nhất thế giới... Ông nhớ lại: Năm 1986, tôi được trường Đại học Sư phạm Ngoại ngữ mời dạy một lớp tiếng Bồ Đào Nha cho giáo viên để đi làm chuyên gia giáo dục ở Angola.
Tôi đã yêu cầu người học phải suy nghĩ bằng ngoại ngữ. Lúc đó, một số học viên từng là giáo viên ngoại ngữ cho rằng học để suy nghĩ được bằng ngoại ngữ là một điều rất đúng, rất tốt nhưng không thể thực hiện được.
Từ đó tôi tập trung nghiên cứu vấn đề này và đã thử nghiệm, vận dụng nhiều phương pháp hiện đại kết hợp với các phương pháp cổ truyền, đặc biệt với phương pháp thiền. “Thiền” không đồng nghĩa với tôn giáo, ai cũng có thể sử dụng nếu biết kết hợp tác dụng của “thiền” với tư duy của trí não và áp dụng trong dạy và học ngoại ngữ.
Năm 1995, tôi bắt đầu mở lớp “thiền” học tiếng Anh, Pháp cho một số người có nhu cầu. ở đây phải nói chính xác, tôi không chỉ truyền bá kiến thức mà chủ yếu là dạy cách học, cách tư duy, cách tạo nên vùng ngoại ngữ trong vỏ não.
Phương pháp dạy của tôi là giúp người học có mục đích, học cho mình, biết hệ thống hóa những kiến thức đã học rồi tổ chức theo trật tự logic và ứng dụng vào cuộc sống, làm lợi cho cuộc sống từ chính những kiến thức đó.
Tôi muốn người học phải tự suy nghĩ bằng ngoại ngữ ở trong đầu, sau đó bật nói thành phản xạ chứ không phải ấp úng... Quá trình thử nghiệm đến năm 2009 với 32 khóa học, trên 500 người đã thành công cùng tôi. “Thiền” đã giúp chúng tôi đạt kết quả cao trong học tập không chỉ với học ngoại ngữ mà ở nhiều bộ môn chuyên ngành khác. Tôi chợt ồ lên.
Một chuyện quá bất ngờ, tựa như điều cao siêu đã, đang tồn tại trong đời sống văn hóa Việt vậy. Đấy có thể là nguyên nhân tạo ra những hoài nghi xung quanh mục đích, hiệu quả phương pháp học của GS Bằng?
Và tất nhiên để có được sự tin cậy, ông đã nghiên cứu rất nhiều phương pháp giảng dạy tiên tiến trên thế giới, vận dụng những kiến thức văn hóa dân gian, từ đó đưa ra chứng luận, viết nhiều sách và có những buổi thuyết trình trước các nhà khoa học nhằm làm sáng tỏ hơn phương pháp dạy của mình.
Mọi thứ trở thành “Chuyện thường ngày ở khu tập thể” khi GS Bằng vẫn thường xuyên dạy học, ai nghèo thì miễn phí, cốt người đó hiếu học và quyết tâm học để có ích cho xã hội.
Không ngưng nghỉ tư duy
GS Lê Khánh Bằng sinh ra trong một gia đình danh giá ở Hương Sơn, Hà Tĩnh, cha ông từng làm đến Tham tri Bộ Lễ trong triều đình nhà Nguyễn. Có lẽ vậy mà ngay từ nhỏ, ông đã được chọn học ở Quốc học Huế. Ông bảo: Từ nhỏ tôi theo học hệ cổ điển, được học tiếng Pháp, Anh, La tinh và thế hệ anh em hồi đó học rất giỏi.
Năm 17 tuổi tôi tham gia tiền khởi nghĩa, sau đó đi bộ đội, là cán bộ tuyên truyền Mặt trận Huế, bộ đội thông tin liên lạc Liên khu 4. Năm 1948 tôi được cử đi học chuyên khoa Huỳnh Thúc Kháng, ban Văn học, và gắn cuộc đời với sự nghiệp giáo dục cũng như dành tâm huyết cho công cuộc đổi mới, cải cách giáo dục.
Từ hồi đó, GS Bằng đã nhận thấy nhiều hạn chế của phương pháp giáo dục truyền thống “thầy là trung tâm” và đã cùng một số GS đầu ngành nghiên cứu, đề xuất những phương pháp cải tiến, đổi mới trong giảng dạy nhằm đem đến hiệu quả giáo dục cao.
Tuy nhiên, như tôi hỏi ông: Tại sao đến giờ, sau 40-50 năm, mọi chuyện vẫn... dậm chân tại chỗ? Ông bảo, âu cũng bởi sự ngại thay đổi của nhiều cấp quản lý giáo dục cũng như thói quen của học sinh, chỉ nghe, học một cách thụ động, dập khuôn...
Nguyên là tổ trưởng bộ môn Lý luận dạy học, khoa Tâm lý giáo dục, Đại học Sư phạm Hà Nội, chủ nhiệm đề tài cấp Nhà nước “Cải tiến phương pháp giảng dạy trong các trường Đại học và Cao đẳng”, ông cho biết: Cách dạy cũ là truyền đạt thông điệp, truyền thụ tri thức một chiều cho học sinh hoàn toàn đi ngược với những thành tựu tâm lý học và giáo dục học.
Ngày nay, người ta học không chỉ để thừa hành, học máy móc bằng nghe, nhìn mà học bằng cách làm, kỹ năng ứng dụng thực tế. Vì thế quan điểm “lấy học sinh là trung tâm” có thể sẽ làm khó chịu, gây phản ứng, song đó là con đường ngắn nhất, hiệu quả nhất. Giáo dục phải là Quốc sách.
Chúng ta đã cải tiến phương pháp giảng dạy, cải cách SGK nhưng cái gốc cơ bản là thay đổi lề lối thi cử thì lại e sợ. Đổi mới thi cử dẫn đến nâng cao chất lượng dạy và học trong nhà trường. Sẽ không còn chuyện giáo viên nặng về thuyết trình, giảng giải, thầy nói, trò ghi một cách thụ động.
Không còn chuyện giáo viên ngại đổi mới phương pháp giảng dạy vì bị cho là “lập dị” mà sẽ ở vai trò then chốt, đúng vị trí là người hướng dẫn học sinh tự tìm hiểu, sáng tạo. Và tất nhiên sẽ không còn chuyện học sinh khi ra đời, không có kiến thức, không biết làm việc...
Có lẽ vì niềm tin thế mà dù đã ở tuổi xưa nay hiếm, GS Bằng vẫn không ngừng nghỉ nghiên cứu rất nhiều tài liệu quốc tế, đúc rút kinh nghiệm và đưa ra nhiều phương pháp dạy và học độc đáo, hiệu quả. Ông vẫn không dừng việc viết sách, nói ra những điều được cho là hạn chế tư duy sáng tạo và phát triển của học sinh và đề xuất nhiều ý kiến xác đáng cho ngành giáo dục.
Ông bảo: Đã đến lúc người dạy phải tính đến nhu cầu, nguyện vọng của người học, đến những đặc điểm tâm sinh lý và cấu trúc tư duy của từng người. Coi trọng việc phát huy cao độ tính tích cực và nội lực của người học, tổ chức cho học sinh hoạt động độc lập và theo nhóm (thảo luận, làm thí nghiệm, quan sát vật mẫu, phân tích số liệu...).
Từ đó, học sinh vừa tự nắm vững các tri thức, kỹ năng mới, đồng thời được rèn luyện về phương pháp tự học, được tập luyện phương pháp nghiên cứu, sáng tạo.
GS Lê Khánh Bằng khép cửa và lui vào căn phòng nhỏ đơn sơ, tiếp tục công việc còn dang dở. Hình như hôm nay ông có lớp ở Trung tâm phát triển tự học, hay lớp cao học về phương pháp dạy và học trong trường đại học...
Tôi biết, ông vẫn đau đáu một nỗi, làm sao có thể dạy HS-SV phương pháp học không mất nhiều thời gian mà vẫn hiệu quả, để các em có nhiều thời gian giải trí, vui chơi, phát triển bản thân một cách toàn diện. Dường như GS Bằng chưa muốn nghỉ ngơi. Ông vẫn muốn góp sức mình, được ngày nào tốt ngày ấy, như lời ông nói, cho cuộc sống này.
Hà Bảo Lâm
~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~
Giáo sư 82 tuổi truyền ngoại ngữ bằng Thiền | |||||||||||||||||||
09/03/2009 09:44 (GMT + 7) | |||||||||||||||||||
(TuanVietNam) - Gửi lại phía sau hơn 40 năm trong nghề giáo, GS Lê Khánh Bằng về hưu với... "bục giảng ở nhà", đón học trò đến học ngoại ngữ không theo cách truyền thống: Học ngoại ngữ bằng phương pháp Thiền. | |||||||||||||||||||
Không muốn ở ẩn với nếp sống nhàn tản, giáo sư (GS) đã biến căn nhà nhỏ tại tầng 4 khu tập thể Đồng Xa (Hà Nội) thành một giảng đường cho người thích học ngoại ngữ lui tới với phương pháp học đặc biệt mà đến giờ còn gây nhiều tranh cãi.
Khi nói đến Thiền, không ai không nghĩ đến một phương pháp học chủ yếu huy động về mặt tinh thần và ưa phần "tĩnh". Điều đáng nói ở phương pháp học mà giáo sư Lê Khánh Bằng đưa ra là dạy học tiếng Anh chỉ với vài động tác Thiền. Thiền (tức tập trung) là một cách rèn luyện gồm những biện pháp thể dục và tâm lý, từ gốc Yoga, được một trường phái phật giáo của Trung Quốc kết hợp với phương pháp của Đạo Lão áp dụng sau đó truyền sang Việt Nam, Nhật Bản và ngày nay cũng được một số người châu Mỹ vận dụng.
Và việc học ngoại ngữ thông thường đều chỉ chú trọng vào 4 kỹ năng cơ bản: nghe, nói, đọc, viết. Tuy nhiên, để việc học ngoại ngữ thật sự có hiệu quả và người học sử dụng ngoại ngữ ứng dụng vào cuộc sống hàng ngày như ngôn ngữ mẹ đẻ thì cần tạo ra được vùng ngoại ngữ ở trong vỏ não. Tạo ra vùng ngoại ngữ bên trong vỏ não là một quá trình tập trung cao độ lâu dài hay còn gọi là Thiền. Đã từ lâu người dân của khu tập thể nhỏ bé gọi ông giáo Bằng là "ông giáo Thiền". 82 tuổi, vậy mà ngày nào cụ bà cũng phải nhắc cụ ông rời bàn sách để nghỉ ngơi. Tất cả cũng chỉ tại ông đang làm cuốn sách: “Phương pháp tự học và hướng dẫn tự học ngoại ngữ có chất lượng và hiệu quả cao”. Phương pháp học ngoại ngữ bằng Thiền đã được giáo sư Lê Khánh Bằng tổng hợp lại với những công thức gồm: 3T, 5B, 5C, 2H và 3V.
5B là 5 bước chuyển vào trong và 5 bước chuyển ra ngoài. Trong đó, 5 bước chuyển vào trong bao gồm: Bước 1: đọc thật to để tạo nên một khu vực hưng phấn mạnh trong vỏ não và nhằm góp phần làm ức chế vùng tiếng mẹ đẻ. Đọc to, đúng như vậy từ 3 – 5 lần. Bước 2: đọc to vừa, đúng ngữ điệu, tốc độ có thể nhanh dần lên. Đọc to vừa 3 – 5 lần hoặc hơn. Bước 3: đọc mấp máy môi, có âm thanh và ngữ điệu phát ra nho nhỏ. Đọc 3 – 5 lần, tốc độ nhanh nhất có thể. Bước 4: Đọc trong óc, còn gọi là đọc liếc hay đọc thầm. Lúc này môi không mấp máy, âm thanh không phát ra, nhưng bản thân người đọc vẫn cảm thấy âm thanh và ngữ điệu vang lên trong óc. Đọc như vậy nhiều lần, có thể từ 10 đến 100 lần, cho đến khi đọc thuộc lòng hẳn. Bước 5: Đọc thuộc lòng trong óc nhiều lần( không nhìn vào bảng chữ cái như trong bước 4) để khắc sâu vào vỏ não. 5 bước chuyển vào trong bao gồm: Bước 1: Đọc trong óc. Bước 2: Đọc mấp máy môi. Bước 3: Đọc to vừa. Bước 4: Đọc to. Bước 5: Vừa đọc vừa viết nhanh lên giấy. 5C là chất lượng đạt 5 kỹ năng nghe, nói, đọc, viết và suy nghĩ bằng ngoại ngữ. 2H là hiệu quả của việc học ngoại ngữ phải đáp ứng được các yêu cầu của nền kinh tế xã hội và sử dụng tốt các nguồn lực. Cuối cùng là 3V tương ứng với 3 vùng ngoại ngữ cơ bản, từ tối thiểu, phổ thông đến chuyên ngành. Đó là những nội dung cốt lõi và chủ đạo mà người thầy già muốn gửi gắm trong cuốn sách này. Dạy cách suy nghĩ bằng ngôn ngữ khác
Cuối cùng ông đã biết kết hợp mặt lợi của Thiền để nâng cao hiệu quả học tiếng của người học. Ông chính thức mở lớp học từ năm 1995 với nhu cầu cũng như mong muốn của những người theo học. Ở lớp học của thầy Bằng, khi thầy giáo đề cập đến vấn đề gì hay chỉ vào những hiện vật trực quan cụ thể thì học sinh phát ra thứ đó bằng tiếng Anh ngay lập tức. Phân tích về vấn đề này, GS Bằng cho biết: “Tôi muốn người học phải tự suy nghĩ tiếng Anh ở trong đầu. Suy nghĩ bằng tiếng Anh nhanh chứ không phải nói mãi mới bật ra được. Tôi dựa trên những bước mà kết hợp từ tác dụng của Thiền với tư duy của trí não”. Đã 30 khóa học đi qua với hơn 500 học viên, lớp học ngoại ngữ bằng phương pháp Thiền luôn là điểm đến quen thuộc của những người yêu ngoại ngữ. Khi nói về việc học tại nhà thầy Bằng, em Trần Đức Tuấn - học sinh lớp 11 trường THPT Việt Đức, nói: “ Ba mẹ định cho em đi du học nhưng vấn đề giao tiếp của em chưa ổn cuối cùng em đi học lớp của thầy Bằng thông qua người quen. Em thấy mình có nhiều tiến bộ nhất là ở kĩ năng nói. Thầy dạy có kỉ luật nên việc tập trung và tự rèn luyện phải cực kì cao mới được kết quả như thế”. GS Bằng đã giảng dạy thành công khá nhiều thế hệ học trò trong đó có rất nhiều thạc sĩ, cử nhân có nhu cầu học tập tiếng Anh để phục vụ mục đích trong cuộc sống của mình. Hầu hết họ đều đánh giá cao phương pháp học này, tất cả đều do bản thân người học chứ không phải do thầy giáo. Người thầy chỉ là người bật nút và kích thích họ mà thôi. Những khúc quanh của đời người dạy học qua Thiền
Hơn chục tuổi giáo sư đã được gửi hẳn vào trường Quốc học Huế và học cùng những danh sĩ khắp cả nước. Tại đây ông đã được trau dồi những kiến thức căn bản của văn hóa phương Đông và có cơ hội tiếp thu những kiến thức của văn hóa phương Tây. Từ đấy những tố chất của ông được phát huy triệt để. Năm 17 tuổi ông tốt nghiệp tú tài với bằng xuất sắc, ông ra Hà Nội tiếp tục học cử nhân rồi đi khắp nơi trên thế giới với 6 thứ tiếng uyên thâm. Đặc biệt giáo sư nói rất chuẩn ngôn ngữ Latinh, cụ thể là tiếng Bồ Đào Nha. GS cho rằng: “Không chỉ có việc học ngoại ngữ cần phải tập trung cao độ mà ở các bộ môn chuyên ngành khác cũng phải như thế. Nếu không tập trung cao độ thì ắt hẳn sẽ khó khăn lắm mới có thể thành công”. Khi dạy Thiền, giáo sư cũng chỉ mong người học tập trung để tạo được một vùng ngoại ngữ trong vỏ não và đó là mục đích cuối cùng của người dạy. Để được người khác tin cậy bằng phương pháp học lạ, ông phải đứng trước rất nhiều nghi ngờ. Giáo sư đã phải viết sách và có những buổi thuyết trình trước những nhà khoa học để làm sáng tỏ hơn phương pháp dạy của mình. GS nói: “Tôi không truyền bá kiến thức. Phương pháp dạy của tôi là cho người học biết hệ thống hóa những kiến thức đã học rồi tổ chức nó theo trật tự logic và đem vào cuộc sống để làm lợi cho cuộc sống từ chính những kiến thức đó”. Lòng đam mê dạy học, dạy học là niềm vui đã tác động rất lớn đến suy nghĩ của giáo sư. Ông nói vui: "Tôi không muốn mình trở thành một ông già "quá đát" của cuộc sống!". Ở tuổi cổ lai hy, giáo sư vẫn muốn được đóng góp được "thêm chút nào hay chút đó" cho cuộc sống này.
|
No comments:
Post a Comment