03:39-20/02/2009
Một chủ đề hay được nhắc đến khi luận bàn về chính sách phát triển khoa học là sự phân biệt giữa nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng. Bài viết này nhằm góp phần nhìn nhận sự phân biệt đó trong hoàn cảnh Việt
Trước hết, tôi xin nêu lại những nhận định chung thường được đưa ra tranh luận và được sự tán đồng rộng rãi của phần đông các nhà khoa học và các nhà hoạch định chính sách.
Bất kỳ ai biết và yêu khoa học đều hiểu rằng khoa học được tạo nên bởi nghiên cứu ứng dụng và nghiên cứu cơ bản; lý thuyết; quan sát và thí nghiệm; chúng có quan hệ tương hỗ và cần có nhau để phát triển.
Điều đầu tiên được sự đồng tình là không nên đối lập nghiên cứu ứng dụng và nghiên cứu cơ bản mà thậm chí phân biệt thứ bậc giữa chúng cũng là điều không nên. Bất kỳ ai biết và yêu khoa học đều hiểu rằng khoa học được tạo nên bởi nghiên cứu ứng dụng và nghiên cứu cơ bản; lý thuyết; quan sát và thí nghiệm; chúng có quan hệ tương hỗ và cần có nhau để phát triển. Bất kỳ ai biết và yêu khoa học đều hiểu rằng sự đa dạng của khoa học là một trong những giá trị chính của nó. Phân biệt thứ bậc giữa các ngành khác nhau, như những nhà nhận thức luận đang làm, không những vô ích mà còn rất nguy hiểm. Phân biệt giữa khoa học tốt và tồi không phải ở chủ đề mà ở chất lượng nghiên cứu, năng lực, sự nghiêm túc, kỹ năng và sự sáng tạo của nhà khoa học hoặc một nhóm các nhà khoa học. Dĩ nhiên, một nhà khoa học giỏi sẽ chọn đề tài nghiên cứu dựa vào tầm quan trọng của đề tài và cơ hội thành công của mình. Điều này đúng cho một nhà lý thuyết giỏi cũng như một nhà thực nghiệm giỏi; đúng cho nghiên cứu cơ bản cũng như nghiên cứu ứng dụng. Khi Penzias và Wilson phát hiện bức xạ phông nền vũ trụ, họ đang chỉnh ăng-ten tại Bell Telephone để liên lạc với vệ tinh; khi Anderson phát hiện hạt positron, ông cũng đang điều chỉnh buồng hơi cho Millikan. Có rất nhiều ví dụ như vậy trong tất cả các lĩnh vực khác nhau. Thực ra, sự khác biệt giữa ứng dụng và cơ bản, giữa lý thuyết và thực nghiệm chỉ mới xuất hiện gần đây và đó là hệ quả đáng tiếc khi một số ngành khoa học trở nên quá phức tạp; chúng ta không nên bị huyễn hoặc bởi sự khác biệt này.
Thực ra, sự khác biệt giữa ứng dụng và cơ bản, giữa lý thuyết và thực nghiệm chỉ mới xuất hiện gần đây và đó là hệ quả đáng tiếc khi một số ngành khoa học trở nên quá phức tạp; chúng ta không nên bị huyễn hoặc bởi sự khác biệt này.
Ở đây, tôi không cần nhắc lại những luận điểm mà các nhà khoa học vẫn thường lặp đi lặp lại với một số nhà quản lý vốn chỉ ủng hộ nghiên cứu cơ bản một cách miễn cưỡng. Một trong những điển hình nhất trong số đó là câu trả lời của Faraday tới Bộ trưởng Tài chính khi ông này hỏi về giá trị thực tế của điện: "Thưa ngài, đến một lúc nào đó ngài sẽ có thể đánh thuế nó." Hoặc câu chuyện vui rằng điện đã có thể không bao giờ được phát minh nếu người ta chỉ lo việc cải tiến những ngọn nến. Tuy nhiên, điều quan trọng là, những luận điểm này rất rõ ràng và có giá trị phổ quát, nhưng chúng lại có thể không áp dụng được vào một cộng đồng nhất định, chẳng hạn như các nước đang phát triển. Một Bộ nhà quản lý khoa học Việt Nam nào đó có thể nói rằng: "Tôi hoàn toàn nhận thức được tầm quan trọng của nghiên cứu cơ bản nhưng nó đang được tiến hành ở các nước phát triển; Việt Nam đang phát triển rất nhanh nhưng nguồn nhân lực của đất nước thì có hạn; điều quan trọng đối với chúng ta bây giờ là phát triển nghiên cứu ứng dụng để có thể đào tạo được nhiều kỹ sư và thúc đẩy sự phát triển các ngành công nghiệp; ở bất kỳ khía cạnh nào, chúng ta đều không thể cạnh tranh được với các nước phát triển về nghiên cứu cơ bản; hãy tạm thời quên nó đi và tập trung vào ứng dụng".
Nếu thế, câu hỏi sẽ không còn là "Tại sao chúng ta phải làm nghiên cứu cơ bản?” mà sẽ là "Tại sao Việt
Tôi không có câu trả lời hoàn hảo cho những câu hỏi này, nhưng chúng ta hãy thử góp nhặt một vài ý trả lời cho những câu hỏi đó.
Một luận cứ rõ ràng và có sức thuyết phục, có thể là duy nhất: Hai nhà khoa học Penzias và
Các trường đại học và các phòng thí nghiệm Việt
Không có chiếc đũa thần nào có thể biến các trường đại học Việt
Đó là một nhiệm vụ khó khăn và cấp thiết; để làm được điều đó đòi hỏi nhiều hơn điều đơn giản là ra nghị quyết. Không có chiếc đũa thần nào có thể biến các trường đại học Việt
Tại sao lại phải làm vậy?
Đầu tiên, hãy nghĩ về một sinh viên tài năng có quyết tâm cống hiến cuộc đời cho khoa học. Anh ta sẽ luôn bị hấp dẫn bởi những vấn đề lớn thuộc tuyến đầu của tri thức. Những vấn đề đó có thể gần với các ứng dụng có tiềm năng , như trong các lĩnh vực công nghệ nano, khoa học môi trường và hầu hết các ngành khoa học về sự sống, nhưng cũng có thể dường như khá xa với những ứng dụng trước mắt như trường hợp của vật lý thiên văn hoặc vật lý các hạt cơ bản . Đóng cửa đối với sự quan tâm tìm hiểu biết của anh ta với lý do rằng mối quan tâm đó thuộc lĩnh vực không có ứng dụng hiển nhiên chẳng khác nào buộc sinh viên đó phải rời bỏ đất nước, đấy là một tổn thất lớn cho Việt
Hàng loạt các ứng dụng thực tế đều bắt nguồn từ nghiên cứu cơ bản và rất nhiều, có thể hầu hết, nghiên cứu ứng dụng đều xuất phát từ những phát minh mà mục đích ban đầu không phải là tìm các ứng dụng khả dĩ trước mắt.
Thứ hai, một trường đại học tốt nên có một vài nhà khoa học trình độ quốc tế - ít nhất một người trong một khoa - có khả năng dạy sinh viên những kiến thức cơ bản trong lĩnh vực của họ cũng như đào tạo những sinh viên này lên trình độ cao hơn. Hầu hết các ngành liên quan đến nền tảng của khoa học hiện đại như vật lý lượng tử, thuyết tương đối, sinh học phân tử, vân vân… không được giảng dạy vì các ứng dụng của nó mà vì những giá trị tự thân của chúng. Các kỹ thuật viên có thể bỏ qua những môn này. Nhưng các nhà khoa học và kỹ sư, bất kể làm gì trong một lĩnh vực có hoặc không có ứng dụng hiển nhiên, phải làm chủ được chúng nếu muốn thành công. Một lần nữa, chúng ta không nên nghĩ đến khía cạnh cơ bản hay ứng dụng mà đơn giản là phải nghĩ đến chất lượng. Đóng cửa với nghiên cứu cơ bản sẽ làm các trường đại học Việt
Cách tiếp cận này nghe có vẻ như chỉ dành riêng cho một nhóm người. Tuy nhiên không phải thế. Đây là một tiếp cận thực tế: trong khi chúng ta có khả năng thành lập một vài trung tâm chất lượng cao, thì chúng ta không thể nào nâng toàn bộ hệ thống đại học của Việt
Tất cả những điều tôi đang nói là một chính sách khoa học hợp lý phải tạo không gian cho nghiên cứu cơ bản hoặc, có thể nói là, cho nghiên cứu không có ứng dụng hiển nhiên trước mắt…Chính sách đó phải lựa chọn được các đề tài và các nhà khoa học dựa trên nền tảng chất lượng. Chính sách đó cũng phải cung cấp cho họ đủ nguồn tài chính, nhớ rằng một nhà khoa học làm việc trong một lĩnh vực không có ứng dụng rõ ràng gần như không thể kiếm được nguồn kinh phí hỗ trợ từ công nghiệp (ngược lại với các nhà khoa học làm việc trong các lĩnh vực có ứng dụng rõ ràng). Phải dành chỗ cho những nghiên cứu không có ứng dụng rõ ràng, bởi vì đó là điều kiện không thể thiếu để nâng cao đẳng cấp các đại học lên tầm quốc tế, để đào tạo các nhà khoa học và các kỹ sư hơn là các kỹ thuật viên. Để thành công, nghiên cứu ứng dụng cần phải đồng hành với nghiên cứu cơ bản.
Đầu tư cho khoa học càng nhiều càng tốt, nhưng để xác định đúng mức độ đầu tư đòi hỏi một sự phân tích chi tiết trước về tình hình, hiện trạng và một sự đánh giá khách quan những người có kĩ năng và tài năng với mục đích tìm ra được những người mà trình độ có thể nâng lên tầm quốc tế khi họ được cung cấp đủ các điều kiện cần thiết..
Trong một đất nước việc dành tỉ lệ nào đó cho khoa học mà không quan tâm đến những ứng dụng khả dĩ là một quyết định quan trọng của các nhà lãnh đạo. Mỗi quốc gia đều có một số lĩnh vực cần ưu tiên phát triển và trong các lĩnh vực đó tuyển chọn những đề tài nhất định. Trong hoàn cảnh Việt
Việt
No comments:
Post a Comment