Sunday, November 8, 2009

Phan tich cac ho thuy dien o Mien Trung xa lu-To Van Truong

KHÔNG CHỈ LÀ BÀI HỌC

Tô Văn Trường

Trong ký ức của người dân, trận lũ lịch sử, cơn “đại hồng thủy” đầu tháng 11 năm 1999 đã tàn phá kinh hoàng khắp dải đất miền Trung từ Quảng Trị đến Bình Định làm 595 người chết và thiệt hại khoảng gần 4.000 tỷ đồng. Các cơn bão lớn Chansu năm 2006, Xangsane năm 2007 và đặc biệt 2 cơn bão lũ liên tiếp số 9 (Ketsana) và số 11 (Mirinae) trong năm 2009 gây tổn thất lớn về người và của. Một lần nữa dư luận và báo chí lại nói về các bất cập của công tác dự báo, việc phá rừng đầu nguồn, rừng phòng hộ ven biển, vận hành các nhà máy thủy điện vv…do chính con người gây ra cộng hưởng với sự tàn phá ác liệt của thủy tinh. Tổn thất nhân mạng hàng trăm con người thì không thể chỉ nói một cách đơn giản là những bài học kể cả bài học vẫn chưa thuộc hay bài học đắt giá mà phải nói đến trách nhiệm, lương tâm của mỗi con người, của cả bộ máy, hệ thống chính trị với các vấn đề hiện tại và tương lai của đất nước.

Mục tiêu chiến lược của nước ta đến 2020 đưa Việt Nam thành nước an tòan với thảm họa thiên tai; giảm những mất mát kinh tế do thảm họa gây ra trung bình từ 2% của GDP của quốc gia trong thập niên 90 xuống còn dưới 1% GDP trong thập niên này. Tuy nhiên, mục tiêu này khó có thể hòan thành nếu những kịch bản về ngập lụt do mưa lũ kéo dài đã xảy ra như ở Hà Nội vào đầu tuần tháng 11 năm 2008, hay thiệt hại do cơn bão số 9 số 11 năm 2009 vừa qua ở miền Trung tiếp tục lặp lại trong tương lai. Một câu hỏi đặt ra chúng ta phải làm cái gì, làm như thế nào , khi nào để đối phó một cách hữu hiệu hơn, ít tổn thất cả về vật chất và nhân mạng do bão lũ “đến hẹn lại lên” đối với mảnh đất hình chữ S thân thương này.

Trước hết, nói về công tác tổ chức phòng tránh thiên tai. Theo Lê Nin nhiệm vụ của cấp chính quyền “Tổ chức, tổ chức và tổ chức”. Cương lĩnh của Đảng cầm quyền và Hiến pháp của nước ta đã khẳng định người dân làm chủ đất nước, làm chủ xã hội chủ yếu thông qua nhà nước. Do đó, các cơ quan công quyền từ trung ương đến địa phương phải có trách nhiệm bảo vệ cuộc sống an toàn cho người dân đó là trách nhiệm và đạo lý. Luật Tài nguyên nước được Quốc hội thông qua ngày 20 tháng 5 năm 1998 đã tạo một khung pháp lý thuận lợi về cơ cấu tổ chức cho công tác phòng, chống và khắc phục hậu quả thiên tai liên quan đến nước. Tuy nhiên, hiện nay trong thực tế về tổ chức công tác này còn rất nhiều bất cập và chồng chéo. Năm 2002, bộ Tài nguyên và Môi trường được thành lập, chức năng quản lý nhà nước về tài nguyên nước từ bộ Nông nghiệp & phát triển nông thôn lại được giao cho Cục quản lý Tài nguyên nước trực thuộc Bộ TNMT, trong khi bộ máy, nguồn nhân lực chủ yếu làm nhiệm vụ phòng chống thiên tai vẫn ở Bộ NN&PTNT!? Những người làm công tác tổ chức liệu có lúc nào đó tự vấn hỏi vì sao cả một ngành thủy lợi hùng mạnh xưa kia, với đầy đủ nhân tài, vật lực lẽ ra đã có thể đóng góp nhiều hơn cho việc phát triển nguồn nước và giảm nhẹ thiên tai cho đồng bào của mình nhưng ngày càng phân tán, mai một, thậm chí ở cấp cơ sở như huyện, xã hầu như không còn cán bộ chuyên ngành thủy lợi. Không có cán bộ chuyên môn thì lấy ai tư vấn cho lãnh đạo khi đề ra các chính sách và quyết định hợp lý!?. Người dân không thể nào quên sự phối hợp và quyết đoán sáng suốt, dũng cảm của trưởng ban phòng chống lụt bão Lê Huy Ngọ và Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Nam Lê Trí Tập trong việc “giải cứu” đập Phú Ninh trước cơn đại hồng thủy năm 1999 ở miền Trung.

Kinh nghiệm của các nước tiên tiến, muốn quản lý tài nguyên nước hữu hiệu phải có sự thống nhất dựa trên cơ sở quản lý lưu vực sông nhưng thực tế hiện nay cả bộ NN& PTNT và bộ TNMT đều làm nhiệm vụ quản lý lưu vực sông! Sự không rõ ràng, thiếu hiệu quả trong tổ chức quản lý lưu vực sông thời gian qua là trách nhiệm của bộ Nội vụ và Chính phủ. Các chức năng liên quan đến dịch vụ về nước nằm trong rất nhiều các b,ngành khác nhau. Ví dụ, bộ NN&PTNT quản lý các dịch vụ liên quan cấp thóat nước và vệ sinh môi trường nông thôn, bộ Công nghiệp có trách nhiệm xây dựng vận hành và quản lý các nhà máy thủy điện, bộ Xây dựng quản lý các công trình cấp nước cho đô thị cho nên việc chậm trễ trong công tác phối hợp giữa các ngành để ứng phó, hoặc giải quyết mâu thuẫn thường xẩy ra giữa các ngành sử dụng nước không còn là chuyện lạ! Khi thiên tai xẩy ra thì đổ lỗi cho nhau cũng là một thuộc tính của bộ máy quan liêu nhà nước! Cần phải rà soát, xây dựng lại cơ cấu tổ chức thích hợp dựa trên nguyên tắc thống nhất về mặt thủy lợi và môi trường. Chúng ta đã thật sai lầm khi thu hẹp khái niệm về thủy lợi. Thủy là nước, sử dụng nước như thế nào cho có lợi là thủy lợi. Cho nên không phải chỉ có tưới tiêu là thủy lợi mà thủy điện cũng là thủy lợi, cấp thoát nước cũng là thủy lợi. Không nên vì phân công quản lý trong bộ máy nhà nước mà quên đi ý nghĩa tổng hợp của khái niệm thủy lợi. Cũng không nên vì lợi ích trước mắt, hiệu quả kinh tế cục bộ của nhà đầu tư mà đánh mất lợi ích lâu dài của xã hội: rừng bị tàn phá, môi trường bị hủy hoại, hậu quả là lũ lụt xảy ra thường xuyên hơn và gây tác hại ngày càng lớn hơn.

Một trong các vấn đề gây bức xúc trong công luận là việc phát triển ồ ạt các nhà máy thủy điện ở miền trung và Tây nguyên cho nên có nhà khoa học ví von phát triển thủy điện giống như nạn than “thổ phỉ” ở Quảng Ninh. Khách quan mà nói bất cứ tác động nào của con người vào tự nhiên kcả xây dựng đập thủy điện đều đưa đến 2 mặt lợi và hại. Nếu quy hoạch, xây dựng, quản lý vận hành tốt sẽ đem lại cái lợi lớn nhất và thiệt hại ít nhất. Việc xã hội hóa xây dựng thủy điện vừa và nhỏ để giải quyết bài toán năng lượng, góp phần vào điều tiết nước là chủ trương đúng đắn trong bối cảnh nước ta diện tích lưu vực đến 60% nằm ở nước ngoài và nguồn tài chính của nhà nước lại có hạn. Vấn đề đặt ra là việc xây dựng các nhà máy thủy điện phải nằm trong quy hoạch, có đánh giá tác động môi trường (EIA) một cách bài bản, khoa học trên cơ sở của đánh giá môi trường chiến lược toàn vùng (SEA). Cân nhắc kỹ bài toán đánh đổi “được - mất” trên cơ sở tổng thể cả kinh tế, xã hội và môi trường để quyết định việc xây dựng các nhà máy thủy điện. Nhiều người dân băn khoăn, trăn trở thủy điện đã tàn phá quá nhiều diện tích rừng, “lợi bất, cập hại”, ngành điện cần quan tâm nghiên cứu kể cả trợ giá cho việc sử dụng nguồn năng lượng khác không tiêu phí tài nguyên như như điện gió. Bài học kinh nghiệm của Mỹ đang có kế hoạch phá bỏ 4 đập thủy điện trên sông Klamath chảy dọc ranh giới bang Califonia và Oregon. Nhật Bản cũng phải ngừng lại việc xây dựng 48 nhà máy thủy điện chỉ vì hậu quả lớn hơn hiệu quả.

Các cơ quan có trách nhiệm ở trung ương và địa phương ở nước ta đã được các nhà khoa học cảnh báo nhiều lần về các hồ thủy điện ở miền Trung và Đông Nam bộ khi xây dựng nói chung không quan tâm đến dung tích cắt lũ (mực nước dâng bình thường đến mực nước gia cường) lại lo tích nước sớm để phát điện cho mùa sau cho nên gặp kỳ lũ lớn chẳng những không cắt được lũ mà còn xả lũ làm tình hình hạ lưu nguy khốn hơn. Tiếc thay, các cơ quan có trách nhiệm không có các hành động ứng phó kịp thời, quy trình vận hành nhà máy thủy điện vẫn theo kiểu cát cứ của các “sứ quân” mạnh ai, nấy biết. Cần phải khẩn trương hành động ngay việc rà soát, xây dựng thể chế hóa các tiêu chuẩn thiết kế mới cho các hồ chứa thủy điện đang chuẩn bị xây dựng đúng nghĩa là hồ điều tiết đa mục tiêu có nhiệm vụ cắt lũ, phát điện, cấp nước mùa khô. Đối với các công trình đã xây dựng, cần tiến hành ngay việc lập lại quy trình vận hành các nhà máy thủy điện theo nguyên tắc liên hồ có tính hệ thống từ đầu nguồn tới cuối nguồn lấy mục tiêu cắt lũ bảo vệ an toàn cho người dân làm hàng đầu. Việc này khi tổng kết công tác phòng chống lụt bão năm 2008 đã được đề cập nhưng chưa thực hiện, nay cần được khẩn trương làm ngay để kịp đối phó với mùa mưa bão năm 2010. Muốn vậy, Chính phủ phải vào cuộc để thống nhất hành động vì việc này liên quan đến nhiều ngành và địa phương Ngoài ra, cần mở rộng quan hệ phối hợp chặt chẽ với các cơ quan dự báo của quốc tế như Mỹ, Nhật Bản, Hồng Kông, có kế hoạch chủ động nâng cao chất lượng công tác dự báo, cảnh báo về bão lũ của Việt Nam. Tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục cộng đồng về lợi ích và ý thức bảo vệ rừng đầu nguồn, rừng phòng hộ ven biển trong công tác phòng chống báo lũ.

“Ăn của rừng, rưng rưng nước mắt”. Hai cơn bão ở miền Trung năm nay là những hồi chuông cảnh tỉnh khốc liệt của thiên nhiên bắt buộc chúng ta phải xem xét lại cách đối xử với hệ sinh thái rừng, cách phân công điều hành đối với những phần khác nhau của công tác thủy lợi sao cho rạch ròi nhưng phải thống nhất và phải được kiểm soát chặt chẽ bằng một cơ chế linh hoạt, hiệu quả, bền vững. Sự cứu trợ, thăm hỏi, động viên kịp thời, chia sẻ đau thương mất mát với người dân bị thiên tai của các cấp, các ngành là rất cần thiết và đúng lúc. Tuy nhiên, sự chủ động và có các quyết sách căn cơ từ khâu phòng vệ, thích nghi, đến ứng phó và khắc phục hậu quả sau thiên tai mới là những điều cần bàn và hành động nhiều hơn.

No comments:

Post a Comment