Wednesday, May 6, 2009

Sino-Soviet Relations and the February 1979 Sino-Vietnamese Conflict

Quan hệ Xô Trung và cuộc xung đột
Trung-Việt tháng 2/1979

Bruce Elleman

20/4/1996

Trong cuốn Defending China (Bảo vệ Trung Quốc) phát hành năm 1985, Gerald Segal kết luận rằng cuộc chiến tranh chống Việt Nam của Trung Quốc năm 1979 là một thất bại hoàn toàn: “Trung Quốc đã không thể buộc Việt Nam phải rút quân khỏi Campuchia, không chấm dứt được các cuộc đụng độ ở biên giới, không tạo được sự nghi ngờ về sức mạnh của Liên Xô, không xua đi được hình ảnh về Trung Quốc là một con hổ giấy, và không kéo được Mỹ vào một liên minh chống Liên Xô.

Với mục đích phản bác quan điểm nêu trên rằng chính sách của Bắc Kinh là một sai lầm, bài viết này sẽ đánh giá lại vai trò trung tâm của mối quan hệ Trung-Nga đối với quyết định tấn công Việt Nam của Trung Quốc. Quan trọng nhất, bài viết sẽ chỉ ra việc chọn thời điểm 17/2 của Trung Quốc để tấn công Việt Nam là có liên hệ với dấu mốc 29 năm ký Hiệp ước Hữu nghị, Liên minh và Tương trợ Xô-Trung năm 1950.

Cần nhớ lại rằng ngày 14/2/1950, Bắc Kinh và Mátxcơva ký một hiệp ước 30 năm trong đó có những điều khoản bí mật ủng hộ Liên Xô đóng vai trò lãnh đạo của phong trào cộng sản thế giới. Khi Mátxcơva sau đó từ chối đàm phán trở lại các tranh chấp lãnh thổ Xô-Trung, việc này đã dẫn tới các vụ đụng độ ở biên giới hai nước, mà quan trọng nhất là thời kỳ cuối thập kỷ 1960.

Các học giả phương Tây thường không thấy được rằng kể cả trong thời kỳ diễn ra những căng thẳng này trong quan hệ Xô-Trung, Hiệp ước Hữu nghị, Liên minh và Tương trợ năm 1950 vẫn có đầy đủ hiệu lực trong suốt toàn bộ thời kỳ bất ổn này. Ít nhất từ quan điểm của Bắc Kinh, Hiệp ước Xô-Trung 1950 vẫn là một công cụ chính để cho Mátxcơva tìm cách áp đặt bá quyền đối với Trung Quốc.

Mátxcơva rõ ràng quan ngại điều gì sẽ xảy ra khi hiệp ước Xô-Trung không còn hiệu lực sau 30 năm. Bắt đầu từ năm 1969, Liên Xô thường xuyên hối thúc Trung Quốc thay thế hiệp ước năm 1950 bằng một hiệp ước mới. Năm 1978, các lực lượng Liên Xô được tăng cường dọc theo biên giới Xô-Trung và Trung Quốc-Mông Cổ. Mátxcơva cũng tìm cách buộc Bắc Kinh phải chấp nhận các điều kiện do mình đặt ra bằng cách tăng cường quan hệ ngoại giao với Hà Nội, ký hiệp ước phòng thủ có giá trị 25 năm với Việt Nam vào ngày 3/11/1978.

Tuy nhiên, thay vì xuống nước, Trung Quốc tuyên bố ý định tấn công Việt Nam vào ngày 15/2/1979, ngày đầu tiên mà Trung Quốc có thể kết thúc một cách hợp pháp Hiệp ước Xô-Trung 1950 và tấn công Việt Nam ba ngày sau đó. Khi Mátxcơva không can thiệp, Bắc Kinh tuyên bố công khai rằng Liên Xô đã không thực hiện nhiều lời hứa trợ giúp Việt Nam. Việc Liên Xô không trợ giúp Việt Nam đã khiến Trung Quốc mạnh dạn tuyên bố vào ngày 3/4/1979 ý định chấm dứt Hiệp định Hữu nghị, Liên minh và Tương trợ Xô-Trung năm 1950.

Thay vì chấp nhận ý kiến rằng cuộc tấn công Việt Nam năm 1979 của Trung Quốc là một thất bại hoàn toàn, bài viết này sẽ chỉ ra rằng một trong các mục tiêu ngoại giao chính đằng sau cuộc tấn công của Trung Quốc là để người ta thấy rằng việc đảm bảo trợ giúp quân sự của Liên Xô đối với Việt Nam chỉ là dối trá. Dưới góc độ này thì chính sách của Bắc Kinh là một thành công thực sự, do Mátxcơva đã không tích cực can thiệp, và do đó thể hiện những hạn chế trên thực tế của hiệp ước quân sự Xô-Việt. Kết quả là, bài viết này sẽ chỉ ra rằng Trung Quốc đã đạt được một chiến thắng chiến lược bằng việc giảm thiểu khả năng trong tương lai của một cuộc chiến tranh trên hai mặt trận chống Liên Xô và Việt Nam, và cũng là một thằng lợi ngoại giao bằng việc chấm dứt Hiệp ước Xô-Trung năm 1950.

Bài viết này cũng sẽ đánh giá lại tuyên bố của Bắc Kinh rằng việc Liên Xô đã không can thiệp chống Trung Quốc đã cho thấy Liên Xô thực chất chỉ là “một con gấu giấy.” Các tư liệu được giải mật gần đây của Liên Xô có xu hướng phù hợp với tuyên bố của Trung Quốc, nó đưa đến một câu hỏi quan trọng là liệu BắcKinh đã xác định được chính xác những dấu hiệu ở Viễn Đông về sự suy yếu trong nội bộ của Mátxcơva – chính sự suy yếu cuối cùng đã dẫn đến sự sụp đổ của Liên Xô năm 1991 – hay chưa vào năm 1979 – nhiều năm trước khi bằng chứng về sự suy yếu này trở nên rõ ràng trên vũ đài châu Âu. Nếu như vậy thì tồn tại khả năng rằng “sự bắt đầu kết thúc” của Chiến tranh Lạnh thực sự diễn ra ở châu Á.

Sơ lược lịch sử quan hệ Xô-Trung cuối những năm 1960

Quan hệ Xô-Trung cuối những năm 1960 xấu đi không chỉ bởi sự bất đồng sâu sắc về quy chế của vùng Ngoại Mông (Outer Mongolia), mà còn bởi rất nhiều tranh chấp chủ quyền dọc theo biên giới Xô-Trung. Thực tế, những xung đột này đã mang mầm mống ung nhọt bên dưới bề mặt của mối quan hệ Xô-Trung trong hơn một thế kỷ, kể từ khi Đế chế Nga buộc Trung Quốc phải ký một loạt các hiệp ước nhượng lại nhiều phần lãnh thổ rộng lớn của mình. Theo tác giả S. C. M Paine trong cuốn Imperial Rivals (Các đế quốc đối thủ) sắp phát hành: “Đối với Trung Quốc, những phần lãnh thổ bị mất là rất lớn: một vùng rộng hơn cả phần phía đông sông Mississipi của nước Mỹ đã trở thành lãnh thổ của Nga, hoặc, như trong trường hợp Ngoại Mông, đặt dưới sự bảo hộ của Nga.”

Trên thực tế, các bản được công bố của hiệp ước Xô-Trung đã không đưa vào các nghị định thư bí mật. Ấn bản Mùa đông 1995 của Bản tin Dự án Nghiên cứu Lịch sử Quốc tế thời Chiến tranh Lạnh (Cold War International History Project Bulletin) có trích một đoạn lời của Mao Trạch Đông nói về các cuộc đàm phán bí mật Xô-Trung:

Trong các cuộc đàm phán, theo sáng kiến của Stalin, Liên Xô đã tìm cách chiếm quyền sở hữu chính đối với Railway Changchun (tức Harbin). Tuy nhiên, sau đó một quyết định được đưa ra về việc khai thác chung … Railway, bên cạnh đó Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa trao cho Liên Xô căn cứ hải quân ở Cảng Arthur, và bốn công ty cổ phần được mở ở Trung Quốc. Theo sáng kiến của Stalin, … Manchuria và Xinjiang trên thực tế được đưa vào phạm vi ảnh hưởng của Liên Xô.

Do đó, mặc dù phần công khai của Hiệp ước Xô-Trung 1950 đã được biết đến từ lâu, nhưng cũng không rõ có bao nhiêu nghị định thư bí mật đã được ký kết. Cho đến nay, các nghị định thư này chưa bao giờ được công bố. (Bruce Elleman, “Sự kết thúc của Đặc quyền Ngoại giao ở Trung Quốc: Trường hợp của Liên Xô, 1917-1960,” Nước Trung Hoa Cộng hòa (sắp phát hành, Spring 1996).

Ngày15/2/1950, Mao miễn cưỡng đồng ý công nhận “quy chế độc lập” của Cộng hòa Nhân dân Mông Cổ. Tuy nhiên, việc này không hề có nghĩa là công nhận sự độc lập hoàn toàn của Mông Cổ đối với Trung Quốc, vì Mao tin chắc rằng chính phủ Liên Xô trước đó đã hứa trả Mông Cổ về cho Trung Quốc. Dựa trên những phàn nàn sau này của Mao, có thể thấy hẳn Mao đã nhận được sự đảm bảo từ Stalin rằng tình trạng của Mông Cổ, cũng như vị trí đích xác của các đường biên giới Trung Quốc-Mông Cổ và Trung Quốc-Liên Xô, sẽ được bàn thảo trong các cuộc gặp trong tương lai. Do đó, chính việc Mátxcơva từ chối mở các cuộc đàm phán với Bắc Kinh cuối cùng đã dẫn đến những cuộc đụng độ trong các thập kỷ 1950 và 1960. Dù vấn đề biên giới Trung Quốc-Mông Cổ đã được giải quyết năm 1962, Mao vẫn công khai lên án những hành động xâm lấn của Liên Xô vào lãnh thổ Trung Quốc và phản đối việc Liên Xô kiểm soát Mông Cổ rằng: “Liên Xô, với lý do đảm bảo sự độc lập của Mông Cổ, trên thực tế đã đặt đất nước này dưới sự thống trị của mình.”

Cuối những năm 1960, trong một loạt các sự cố ở biên giới dọc theo các con sông Ussuri và Amur, Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA) đã thể hiện sự kiên cường đáng ngạc nhiên trước Hồng Quân Liên Xô. Các cuộc xung đột này tuy nhỏ về phạm vi và không có kết cục rõ ràng, nhưng đã dẫn đến các cuộc xung đột lãnh thổ sau này ở Xinjiang dọc biên giới Trung Quốc với Liên Xô.

Mặc dù căng thẳng trong quan hệ Xô-Trung lớn đến mức nhiều học giả phương Tây gọi đó là “chia rẽ”, nhưng Hiệp ước Xô-Trung 1950 vẫn tiếp tục có hiệu lực. Trên thực tế, hiệp ước này, gồm cả các nội dung được công bố công khai lẫn các phần bí mật, vẫn là nền móng làm cơ sở cho quan hệ Xô-Trung. Tuy nhiên, nền móng này không vững chắc ngay từ ban đầu, do Liên Xô đã từ chối trả lại các phần lãnh thổ mà Sa Hoàng đoạt được trước đây về cho Trung Quốc. Có thể cho rằng chính vấn đề này chứ không phải điều gì khác đã kiến các nhà lãnh đạo Trung Quốc lên án “bá quyền” của Liên Xô ở vùng Viễn Đông. Và cũng chính vấn đề này đã gây ra căng thẳng trong quan hệ giữa Trung Quốc và Việt Nam trong những năm 1970.

Quan hệ Xô-Trung trong những năm 1970

Những tranh chấp biên giới Xô-Trung cuối những năm 1960 làm Mátxcơva và Bắc Kinh lo lắng, vì cả Liên Xô và Trung Quốc đều là các cường quốc hạt nhân; dường như có một sự đồng thuận không chính thức là không bên nào dùng đến sức mạnh không quân. (Christian F. Ostermann, "New Evidence on The Sino-Soviet Border Dispute," Cold War International History Project Bulletin, Issue 5 (Spring 1995), 186-193.)

Tuy nhiên, các xung đột biên giới Xô-Trung này đã để lại những hậu quả rất lớn về xã hội, khiến cả hai quốc gia phải sử dụng những nguồn lực hiếm hoi để chuẩn bị cho một cuộc chiến tranh hạt nhân có thể xảy ra hoặc cho sự leo thang quân sự trong tương lai dọc theo các đường biên giới chung. Sự vững tin mới có được của PLA về khả năng có thể chống chọi được Hồng Quân Liên Xô cũng cho phép Bắc Kinh có cơ hội trong năm 1971 thực hiện chính sách đối ngoại mới thúc đẩy quan hệ thân thiện với Mỹ.

Ngoài ra, Trung Quốc cũng nỗ lực để cải thiện quan hệ với Nhật Bản, ký kết một hiệp ước vào tháng 8/1978 với nội dung dường như có tính chất chỉ trích chính sách đối ngoại của Liên Xô ở châu Á bằng việc lên án đích danh “chủ nghĩa bá quyền”. Cuối cùng, những căng thẳng Xô-Trung cũng đưa đến một số cuộc chiến tranh qua tay người khác ở Đông Nam Á, chẳng hạn như cuộc xung đột cuối những năm 1970 giữa Việt Nam và Campuchia, cũng như khiến Trung Quốc phải chấp nhận vai trò cường quốc khu vực của mình, trong đó thể hiện rõ nhất bằng cuộc tấn công Việt Nam năm 1979 nhằm cản trở ảnh hưởng đang tăng lên của Liên Xô.

Trong suốt những năm 1970, những căng thẳng Xô-Trung vẫn ở mức cao. Trong thời kỳ này, Mátxcơva cố gắng thuyết phục Bắc kinh đàm phán một hiệp ước mới hỗ trợ, hoặc thay thế, Hiệp ước Xô-Trung năm 1950. Bắt đầu từ năm 1969 và 1970, Mátxcơva đề xuất rằng hai bên cam kết không tấn công lẫn nhau, và đặc biệt là không dùng đến vũ khí hạt nhân. Tuy nhiên, khi Bắc Kinh không thể hiện bất cứ sự quan tâm nào đến thỏa thuận này, năm 1971 Mátxcơva đề xuất việc hai nước kí một hiệp ước mới cùng nhau từ bỏ việc sử dụng vũ lực. Sau đó, năm 1973 Mátxcơva thể hiện sự quan tâm bằng đề xuất cụ thể rằng hai nước ký một hiệp ước không tấn công lẫn nhau; Bắc Kinh tiếp tục phớt lờ các bước đi của Mátxcơva.

Khi thời hạn 30 năm của Hiệp ước Xô-Trung sắp kết thúc, các nỗ lực của Liên Xô nhằm thay thế hiệp ước này tăng lên đáng kể. Thí dụ, ngày 24/2/1978, Mátxcơva công khai đè xuất hai chính phủ ra một tuyên bố về các nguyên tắc cho quan hệ Xô-Trung. Các nguyên tắc này bao gồm: 1) bình đẳng; 2) tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau; 3) không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; 4) không sử dụng vũ lực. Mátxcơva rõ ràng hy vọng rằng một tuyên bố như vậy có thể được sử dụng để thay thế cho Hiệp ước Xô-Trung 1950 nhằm điều chỉnh các quan hệ Xô-Trung. Tuy nhiên, mục tiêu cao nhất trong các đề xuất của Liên Xô rõ ràng là nhằm hạn chế, hoặc thậm chí là làm giàm, ảnh hưởng đang lên của Trung Quốc ở châu Á. (Theo Chang Pao-min, khía cạnh này trong chính sách của Liên Xô đối với Trung Quốc là điều hấp dẫn nhất đối với Việt Nam, thậm chí còn trích lời một quan chức Việt Nam nói rằng: “Rõ ràng lợi ích của Liên Xô có sự song trùng rất lợi với lợi ích của Việt Nam – giảm ảnh hưởng của Trung Quốc trong phần này của thế giới.” Chang Pao-min, Kampuchea Between China and Vietnam (Singapore, Singapore University Press, 1985), 46-47.)

Tuy nhiên, Bắc Kinh từ chối mọi lời đề nghị của Mátxcơva và trong suốt những năm 1970 Trung Quốc lên án Liên Xô bằng những lời lẽ mạnh bạo hơn. Thí dụ, tháng 2/1974, Mao Trạch Đông công khai kêu gọi thành lập một liên minh “thế giới thứ ba” chống lại cái gọi là “thế giới thứ nhất”, trong trường hợp này bao giồm cả Liên Xô và Mỹ. Tuy nhiên, sau khi Mao chết, tờ Nhân dân Nhật báo ra ngày 1/11/1977 có bài viết coi Liên Xô là kẻ thù nguy hiểm nhất của Trung Quốc trong khi Mỹ được coi là một đồng minh. Tất cả các nước xã hội chủ nghĩa – trong đó đặc biệt là Việt Nam (“Sự đổ vỡ trong quan hệ giữa Việt Nam với Trung Quốc sau năm 1975 và liên minh hiện tại của Việt Nam với Liên Xô có thể xuất phát từ sự phản kháng của Việt Nam trước sức ép của Trung Quốc đòi Việt Nam phải chọn một trong hai bên.” Ramesh Thaku and Carlyle Thayer, Soviet Relations with India and Vietnam (New York, St. Martin's Press, 1992), 287) – cũng được coi là các đồng minh tiềm năng trong một “mặt trận thống nhất” chống Liên Xô. Cuối cùng, ngày 26/3/1978, Bộ Ngoại giao Trung Quốc yêu cầu Mátxcơva, ben cạnh việc thừa nhận sự tồn tại của “các khu vực tranh chấp” dọc đường biên giới Xô-Trung, phải rút hoàn toàn quân đội của mình khỏi Cộng hòa Nhan dân Mông Cổ, cũng như rút khỏi đường biên giới Xô-Trung.

Đáp lại trước những đòi hỏi của Trung Quốc, đầu tháng 4/1978 Tổng Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô Leonid Brezhnev đi thăm Siberia và thông báo rằng các thiết bị mới, tân tiến hơn đã được cung cấp cho các đơn bị tên lửa đóng dọc theo biên giới Xô-Trung. Theo Brezhnev, các vũ khí mới sẽ là phương tiện để “tự bảo vệ chúng tôi và những người bạn xã hội chủ nghĩa chống lại sự xâm lược có thể xảy ra từ bất cứ quốc gia nào.” Ngay sau đó, ngày 12/4/1978, Ulan Bator cũng công khai phản đối những đòi hỏi của Bắc Kinh, tuyên bố rằng Liên Xô đã bổ sung quân đội tới các bị trí dọc theo đường biên giới Mông Cổ-Ấn Độ theo đề nghị của Mông Cổ nhằm đối phó với việc Trung Quốc tăng quân ở vùng phía nam biên giới.

Đúng như những gì mà các sự kiện này cho thấy một cách khá rõ ràng, đến năm 1978 những căng thẳng biên giới Xô-Trung đã tăng lên đáng kể, chủ yếu là do việc Liên Xô tăng cường điều quân đóng dọc theo biên giới Xô-Trung và tại Mông Cổ. Ở phạm vi lớn hơn, tình trạng này có thể được giải thích bằng những nỗ lực không ngừng của Mátxcơva nhằm ép Bắc Kinh không chấm dứt Hiệp ước Xô-Trung 1950, điều đã diễn ra trong năm 1979, hoặc tốt hơn là đàm phán một hiệp ước mới với những nguyên tắc làm cơ sở cho quan hệ Xô-Trung trong tương lai. Tuyên bố của Brezhnev rằng ông có ý định sử dụng các lực lượng Xô Viết chống lại Trung Quốc vì “những người bạn xã hội chủ nghĩa” của Mátxcơva cũng là một lời cảnh báo tới Bắc Kinh để họ phải buông Mông Cổ cũng như các đồng minh của Mátxcơva ở Đông Nam Á.

Trung Quốc không những không khuất phục dưới sức ép ngoại giao và quân sự của Liên Xô mà còn tìm cách gây áp lực ngoại giao lại với Mátxcơva bằng việc củng cố quan hệ với cả Mỹ và Nhật Bản. Có thể nói rằng chính sách của Bắc Kinh đã thành công hơn và kết quả là việc Bắc Kinh ký các thỏa thuận quan trọng với cả Oasinhtơn và Tôkiô. Đối với Mátxcơva, rõ ràng các thỏa thuận mới này của Trung Quốc là nhằm chống Liên Xô, do – ít nhất trong trường hợp hiệp ước Trung-Nhật - cả hai bên trực tiếp lên án “chủ nghĩa bá quyền”, thuật ngữ mà Trung Quốc thường dùng để chỉ sự bành trướng của Liên Xô. Đối sách của Liên Xô là tăng cường quan hệ ngoại giao với tất cả các nước Đông Nam Á có biên giới chung với Trung Quốc, trong đó quan trọng nhất là Việt Nam.

Quan hệ Xô-Trung và Việt Nam tháng 2/1979

Mặc dù Trung Quốc có thể không phải là một bên tham gia trong cuộc xung đột Việt Nam những năm 1960 và 1970, nhưng sự giúp đỡ về kinh tế và vật chất của Trung Quốc cho Việt Nam đóng một vai trò hết sức quan trọng. Trung Quốc không chỉ cử binh lính sang giúp Việt Nam duy trì các đường tiếp tế, mà ước tính sự giúp đỡ về vật chất của Bắc Kinh cho Hà Nội từ năm 1950 đến 1978 đã vượt quá 20 tỉ USD (King C. Chen, China's War with Vietnam, 1979 (Stanford, CA, Hoover Institution Press, 1987), 27). Do vậy, không mấy khó hiểu tại sao Bắc Kinh cảm thấy phật ý trước quan hệ ngày càng gần gũi giữa Mátxcơva và Hà Nội cuối những năm 1970.

Điều này đặc biệt đúng sau khi hai nước ký một hiệp ước phòng thủ chung vào ngày 3/11/1978 mà rõ ràng nhằm vào Trung Quốc. Theo một học giả, liên minh Xô-Việt đã khiến Việt Nam trở thành chiếc “trục” trong “cỗ xe kiềm chế Trung Quốc” của Liên Xô. (Robert A. Scalapino, "The Political Influence of the USSR in Asia," in Donald S. Zagoria, ed., Soviet Policy in East Asia (New Haven, Yale University Press, 1982), 71) Do đó, dưới cách nhìn của Trung Quốc, nỗ lực của Mátxcơva nhằm bao vây Trung Quốc về mặt ngoại giao dường như đã sắp thành công. Nhận thức này đã dẫn đến việc Trung Quốc tấn công Việt Nam tháng 2/1979.

Mặc dù quan hệ ngoại giao giữa Bắc Kinh và Hà Nội trong những năm 1960 và đầu 1970 nhìn chung là tốt, nhưng những khác biệt về chính sách giữa Trung Quốc và Việt Nam trở nên lớn hơn sau khi chế độ Sài Gòn sụp đổ tháng 4/1975. Tháng 9 năm đó, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Lê Duẩn đi Bắc Kinh và trong một loại các cuộc gặp trong chuyến đi đó, rõ ràng rằng Trung Quốc rất lo ngại về quan hệ gần gũi giữa Việt Nam với Liên Xô. Mặc dù quan hệ tiếp tục xấu đi trong những năm tiếp theo, nhưng bất đồng giữa Trung Quốc với Việt Nam chỉ trở nên rõ ràng khi hàng nghìn người Hoa bắt đầu rời Việt Nam vào mùa xuân và mùa hè năm 1978. Ngoài ra, những tranh chấp lãnh thổ đối với quần đảo Trường Sa, cũng như việc Việt Nam đánh Campuchia, cũng làm gia tăng căng thẳng Việt-Trung.

Trong khi đó, những dấu hiệu gia tăng về quan hệ hợp tác Xô-Việt cũng xuất hiện vào mùa hè năm 1978, khi Việt Nam tỏ ý muốn trở thành thành viên của khối COMECON. Bên cạnh đó, các nguồn tin của chính phủ Mỹ nói rằng đến tháng 8/1978 đã có tới 4,000 chuyên gia Liên Xô ở Việt Nam. Tháng 9/1978, Liên Xô bắt đầu tăng cường các chuyến hàng chở vũ khí tới Việt Nam, cả bằng đường biển và đường không, bao gồm “máy bay, tên lửa, xe tăng và đạn dược.” Cuối cùng, tất cả các dấu hiệu của việc tăng cường quan hệ Việt-Xô lên đến đỉnh điểm ngày 3/11/1978 với việc Việt Nam và Liên Xô ký Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác. Rõ ràng hiệp ước này là nhằm vào Trung Quốc, bởi tại điều 6 nên rằng Việt Nam và Liên Xô sẽ “tham vấn nhau ngay lập tức” nếu một trong hai nước “bị tấn công hoặc đe dọa tấn công … nhằm loại bỏ mối đe dọa đó.” Có tin rằng hiệp ước này còn bao gồm một thỏa thuận bí mật cho phép lực lượng quân đội Liên Xô tiếp cận với các “sân bay và bến cảng” của Việt Nam (Ramesh Thaku and Carlyle Thayer, Soviet Relations with India and Vietnam (New York, St. Martin's Press, 1992), 61).

Mặc dù Việt Nam tuyên bố rằng việc ký hiệp ước này với Nga là nhằm ngăn chặn những hành động “phiêu lưu” của Trung Quốc, nhưng các nhà lãnh đạo ở Bắc Kinh rõ ràng coi đây là một phần trong các nỗ lực của Mátxcơva nhằm gây áp lực buộc Trung Quốc xuống nước và gia hạn các điều khoản bất bình đẳng của Hiệp ước Xô-Trung 1950. Nếu Liên Xô tạo được một chỗ đứng vững chắc ở Đông Nam Á thì có thể đe dọa Trung Quốc từ cả hai bên sườn phía bắc và phía nam. Nếu thành công, chính sách này sẽ tạo cho Mátxcơva sức mạnh đủ để buộc Bắc Kinh gia hạn, hoặc ít nhất là đàm phán lại, Hiệp ước Xô-Trung 1950 theo cách có lợi cho Mátxcơva. Một biểu hiện sớm của mối quan ngại từ Bắc Kinh về Hiệp ước Việt-Xô đã được Nhân dân Nhật báo lên tiếng, trong đó cảnh báo rằng Mátxcơva đang sử dụng Việt Nam để chống Trung Quốc như đã từng làm trước đây, và thất bại, là sử dụng Trung Quốc để gây áp lực với Mỹ. Bắc Kinh cũng cảnh báo rằng mục tiêu cuối cùng của Mátxcơva là “kiểm soát toàn bộ Đông Dương.”

Với việc ký hiệp ước phòng thù Việt-Xô ngày 3/11/1978, Liên Xô hy vọng sẽ sử dụng mối quan hệ với Việt Nam để giành ưu thế chiến thuật và thọc sườn Trung Quốc. Mối lo ngại chính của Trung Quốc là nếu các chính sách của Liên Xô ở Việt Nam thành công thì chính quyền Xô Viết có thể đạt được sự kiểm soát chặt chẽ về chiến lược và quân sự đối với Trung Quốc. Từ khi diễn ra sự bất hòa giữa Trung Quốc và Liên Xô, đặc biệt là khi xảy ra những xung đột biên giới Xô-Trung cuối những năm 1960, mục tiêu chính của Bắc Kinh là xây dựng tiềm lực quân sự nhằm đối phó với Hồng Quân Liên Xô, điều mà Bắc Kinh đã hầu như đạt được trong khoảng giữa đến cuối những năm 1960 và đầu những năm 1970, khi Trung Quốc có trong tay 3,6 triệu quân theo như báo cáo. Về mặt ngoại giao, Bắc Kinh tiếp tục tìm cách gây sức ép với Mátxcơva bằng việc chính thức bình thường hóa quan hệ với Oasinhtơn ngày 1/1/1979. Ramser Amer kết luận rằng các liên minh mới của Liên Xô và Trung Quốc có mối liên hệ chặt chẽ với nhau: “Vậy là hai liên minh chiến lược đã được thành lập vào những tháng cuối của năm 1978, một liên minh Việt-Xô và một liên minh Trung-Mỹ, và các liên minh này duy trì trong khoảng một thập kỷ.”

Do việc nối lại quan hệ giữa Trung Quốc và Mỹ đầu năm 1979, Liên Xô ngày càng lo ngại về một cuộc chiến tranh trên hai mặt trận với các lực lượng NATO do Mỹ đứng đầu ở phía tây và các lực lượng Trung Quốc ở phía đông. Điều này có thể đã thuyết phục Mátxcơva tăng cường sự ủng hộ đối với cuộc tấn công Campuchia của Việt nam đang diễn ra, một sự kiện mà Robert Ross đã liên hệ chặt chẽ với cuộc tấn công Việt Nam sau đó của Trung Quốc khi ông lập luận rằng việc lật đổ đồng minh thân cận của Trung Quốc ở Campuchia làm Bắc Kinh đặc biệt lo ngại. Trong khi Bắc Kinh không muốn can thiệp trực tiếp vào Campuchia để chặn đứng cuộc tấn công của Việt Nam, cuộc tấn công bằng quân sự của Trung Quốc vào vùng lãnh thổ tranh chấp Việt-Trung có một “mối liên hệ hữu cơ”, khi mà các nhà lãnh đạo Trung Quốc cảnh bảo Việt Nam không nên nghĩ sai lầm rằng Trung Quốc đang “yếu và dễ bị bắt nạt.”

Tuy nhiên, trong phân tích cuối cùng, Việt Nam là một quốc gia khá nhỏ kể cả về dân số và sức mạnh quân sự, và có lẽ sự gia tăng đột ngột số lượng chuyên gia Liên Xô đến Việt Nam - khoảng 5,000 đến 8,000 vào giữa năm 1979 - và việc cung cấp số lượng lớn các phương tiện quân sự là một cảnh báo nguy hiểm đối với an ninh chiến lược trực tiếp của Trung Quốc. Vì vậy, theo King C. Chen: “Nếu không có liên minh Việt-Xô, cuộc chiến tranh mười sáu ngày giữa Trung Quốc và Việt Nam có thể đã không xảy ra.” Trong một lần thừa nhận rõ ràng rằng hợp tác quân sự giữa Trung Quốc và Việt Nam đã làm Trung Quốc lo ngại sâu sắc, Đặng Tiểu Bình công khai thừa nhận rằng “liên minh quân sự” mới giữa Liên Xô và Việt Nam thực chất là một phần trong mục tiêu lâu dài của Liên Xô muốn “bao vây Trung Quốc”.

Sau khi ký Hiệp ước Việt-Xô ngày 3/11/1978, Bắc Kinh phải tìm ra phương sách để phá vỡ âm mưu bao vây Trung Quốc này của Liên Xô. Do vậy, chính nỗi lo bị Mátxcơva đánh thọc sườn đã đẩy Trung Quốc vào thế phải hành động. Rõ ràng, bước đi đầu tiên của Trung Quốc là thử thách mức độ quyết tâm của Liên Xô xem nước này sẽ đứng bên Việt Nam theo đúng tinh thần hiệp ước hay sẽ xuống nước và chấp nhận thất bại. Thậm chí còn có tin nói rằng Đặng Tiểu Bình nói với Tổng thống Mỹ Carter vào tháng 1/1979 rằng một cuộc chiến tranh giữa Trung Quốc và Việt Nam sẽ “phá vỡ những tính toán chiến lược của Liên Xô…” Do đó, thậm chí Ross còn kết luận rằng trong bối cảnh Việt Nam đã đánh chiếm thành công Campuchia, chính “việc Liên Xô bao vây Trung Quốc như một hệ quả” dẫn tới sự cần thiết phải có một cuộc tấn công hạn chế nhằm vào Việt Nam.”

Chiến tranh Trung-Việt 1979

Các lực lượng Trung Quốc tấn công Việt Nam ngày 17/2/1979. Mặc dù các động cơ chính xác phía sau cuộc tấn công của Trung Quốc vẫn còn bỏ ngỏ cho mọi sự diễn giải, nhưng mối lo ngại của Bắc Kinh rằng hiệp ước phòng thủ có giá trị 25 năm của Mátxcơva với Hà Nội có thể dẫn đến việc quân sự hóa của Liên Xô đối với đường biên giới Việt-Trung hiển nhiên là một nhân tố chính. Mátxcơva cũng có thể đã hy vọng rằng hiệp ước ký với Hà Nội sẽ khiến Trung Quốc phải điều bớt quân khỏi phía bắc, do đó làm yếu sự phòng thủ quân sự của Trung Quốc dọc theo biên giới Xô-Trung.

Tuy nhiên, những hy vọng của Mátxcơva đã đổ vỡ khi Trung Quốc quyết định tấn công Việt Nam. Chỉ sau ba tuần đánh nhau, Trung Quốc rút quân và những tranh chấp biên giới Việt-Trung vẫn chưa được giải quyết. Đối với hầu hết những người quan sát từ bên ngoài, hành động quân sự của Bắc Kinh có vẻ như là một thất bại. Nhưng nếu mục tiêu thực sự đằng sau cuộc tấn công của Trung Quốc là nhằm để cho mọi người thấy việc đảm bảo giúp đỡ về quân sự của Liên Xô đối với Việt Nam chỉ là dối trá, thì việc Liên Xô từ chối can thiệp đã chấm dứt trên thực tế hiệp ước phòng thủ Việt-Xô. Do vậy, Bắc Kinh đã đạt được một chiến thắng chiến lược rõ ràng với việc phá vỡ vòng vây của Liên Xô và loại bỏ mối đe dọa của Liên Xô về một cuộc chiến tranh trên hai mặt trận.

Vào ngày 15/2/1979, không chỉ là ngày đánh dấu 29 năm thỏa thuận giữa Mao và Stalin về Mông Cổ mà còn là ngày đầu tiên Trung Quốc có thể chính thức tuyên bố chấm dứt Hiệp ước Hữu nghị, Liên minh và Tương Trợ Xô-Trung, Đặng Tiểu Bình tuyên bố rằng Trung Quốc có kế hoạch thực hiện một cuộc tấn công hạn chế vào Việt Nam. Nhằm ngăn chặn sự can thiệp của Liên Xô hòng giúp Việt Nam, Đặng cảnh báo Mátxcơva ngày hôm sau rằng Trung Quốc đã chuẩn bị cho một cuộc chiến tranh tổng lực với Liên Xô. Để chuẩn bị cho cuộc xung đột này, Trung Quốc đã đặt tất cả quân đội dọc theo biên giới Xô-Trung trong tình trạng báo động khẩn cấp, thiết lập một bộ chỉ huy quân sự mới ở Tân Cương, và thậm chí còn sơ tán khoảng 300,000 dân thường khỏi vùng biên giới Xô-Trung. (Chang Pao-min, Kampuchea Between China and Vietnam (Singapore, Singapore University Press, 1985), 88-89.)

Ngoài ra, phần lớn các lực lượng chiến đấu của Trung Quốc (lên tới khoảng một triệu rưỡi quân) được triển khai dọc theo các đường biên giới với Nga. (Robert A. Scalapino "Asia in a Global Context: Strategic Issue for the Soviet Union," in Richard H. Solomon and Masataka Kosaka, eds., The Soviet Far East Military Buildup (Dover, MA. , Auburn House Publishing Company, 1986), 28)

Như đã báo trước, cuộc tấn công quân sự của Trung Quốc nhằm vào Việt Nam bắt đầu ngày 17/2/1979, chỉ trong vòng ba ngày sau dấu mốc 29 năm Hiệp ước Xô-Trung 1950. Đúng như Đặng tuyên bố ngay từ đầu, Trung Quốc thực hiện một hành động hạn chế đối với Việt Nam. Không chỉ các lực lượng tinh nhuệ nhất của Trung Quốc được triển khai dọc theo biên giới Trung-Việt, Bắc kinh còn quyết định không sử dụng khoảng 500 máy bay tiêm kích và ném bom đã đóng tại khu vực này trước đó. Phản ứng trước cuộc tấn công của Trung Quốc, Liên Xô đưa nhiều tàu hải quân và thiết lập một cầu không vận chuyển vũ khí cho Việt Nam. Ngày 22/2/1979, đại tá N. A. Trarkov, tùy viên quân sự Liên Xô tại Hà Nội, thậm chí còn đe dọa Liên Xô sẽ “thực hiện nghĩa vụ theo hiệp ước Việt-Xô”; tuy nhiên các nhà ngoại giao Xô Viết ở những nơi khác lại thể hiện rõ rằng Liên Xô sẽ không can thiệp chừng nào cuộc xung đột vẫn còn hạn chế. (John Blodgett, "Vietnam: Soviet Pawn or Regional Power?" in Rodney W. Jones and Steven A. Hildreth, eds., Emerging Powers Defense and Security in the Third World (New York, Praeger Publishers, 1986), 98). Liên Xô rõ ràng không có ý định mạo hiểm với một cuộc chiến tổng lực với Trung Quốc vì Việt Nam.

Sau ba tuần giao tranh căng thẳng, Trung Quốc có thể tuyên bố đã chiếm được ba trong số sáu thủ phủ cấp tỉnh của Việt Nam – Cao Bằng, Lạng Sơn và Lào Cai – có biên giới chung với Trung Quốc. Mặc dù các lực lượng Trung Quốc có hơn 250 nghìn quân, phía Việt Nam vẫn sử dụng chiến thuật đánh du kích để Trung Quốc không có được một chiến thắng nhanh chóng. Do vậy, khi Bắc Kinh thông báo ý định rút quân vào ngày 5/3/1979, có vẻ như các mục tiêu cơ bản của cuộc tấn công này vẫn chưa đạt được; cụ thể là tiềm lực quân sự của Việt Nam vẫn chưa bị tổn hại nghiêm trọng bởi Trung Quốc. Sau đó, biên giới Việt-Trung tiếp tục căng thẳng khi Trung Quốc rút quân khỏi Việt Nam sau ba tuần giao tranh.

Đối với nhiều nhà quan sát bên ngoài, cuộc tấn công của Trung Quốc vào Việt Nam là một thất bại hoàn toàn. Tuy nhiên, như Banning Garrett nhận xét chính xác, “người Trung Quốc chứng tỏ rằng họ có thể tấn công một đồng minh của Liên Xô mà không bị trả đũa từ ‘con gấu giấy’. (Banning Garrett, "The Strategic Triangle and the Indochina Crisis," in David W. P. Elliott, ed., The Third Indochina Conflict, (Boulder, CO, Westview Press, 1981), 212.)

Trên thực tế, với việc chứng tỏ rằng Liên Xô sẽ không can thiệp tích cực vì Việt Nam, Trung Quốc tin rằng việc chấm dứt Hiệp ước Xô-Trung 1950 cũng sẽ không dẫn đến chiến tranh. Kết quả là ngày 3/4/1979, Bắc Kinh thông báo ý định chấm dứt Hiệp ước Hữu nghị, Liên minh và Tương trợ Xô-Trung năm 1950. Sau đó, mặc dù các cuộc đàm phán Xô-Trung được mở chính thức vào tháng 10/1979, việc Liên Xô đưa quân vào Afghanistan đã tạo cho Trung Quốc lý do để dừng lại các cuộc gặp trong tương lai, và do đó xóa đi bất cứ sự cần thiết nào cho việc đàm phán một hiệp ước ngoại giao mới giữa Liên Xô và Trung Quốc.

Do các động cơ thực sự phía sau cuộc tấn công năm 1979 của Trung Quốc nhằm vào Việt Nam vẫn còn chưa rõ ràng, các học giả nghiên cứu về cuộc xung đột này đã đưa ra nhiều giả thuyết ấn tượng. Có lẽ giả thuyết thường thấy nhất là Trung Quốc muốn “trừng phạt” Việt Nam vì đưa quân vào Campuchia, nơi trước đó được coi là một quốc gia chư hầu của đế chế Trung Hoa. Các vấn đề khác trong quan hệ Việt-Trung, như tranh chấp lãnh thổ ở quần đảo Trường Sa hay việc di tản ồ ạt người Hoa khỏi Việt Nam, cũng được coi là đóng vai trò quan trọng. Tuy nhiên, thuyết phục nhất là một số nhỏ học giả cho rằng quyết định của Việt Nam đi gần hơn với Liên Xô mới là lý do chính đằng sau cuộc tấn công của Trung Quốc.

Trong số các học giả có quan điểm cho rằng những hành động của Trung Quốc là để đối phó với hiệp ước phòng thủ Xô-Việt ngày 3/11/1979, có nhiều cách diễn giải xung quanh việc chính sách của Trung Quốc là thành công hay thất bại. Thí dụ, theo Gerald Segal, chính sách của Trung Quốc đã thất bại vì không đặt được hiệp ước phòng thủ Xô-Việt tới “thử thách cao nhất.” Robert Ross cũng kết luận rằng chính sách của Trung Quốc là một thất bại, mặc dù ông tích cực hơn Segal ở chỗ cho rằng cuộc chiến tranh Trung-Việt là lần đầu tiên kể từ năm 1949 Trung Quốc sử dụng vũ lực khi lãnh thổ không trực tiếp bị đe dọa, và do đó chứng tỏ Trung Quốc nay có khả năng “hành động như một cường quốc khu vực với những quyền lợi khu vực.” Cuối cùng, Banning Garrett và Nayan Chanda tích cực hơn, ít nhất cũng thừa nhận tuyên bố của Trung Quốc rằng cuộc chiến tranh hạn chế Trung-Việt là một thành công vì đã chứng tỏ rằng Liên Xô là một “con gấu giấy” bởi Mátxcơva đã từ chối thực hiện nghĩa vụ theo hiệp ước phải can thiệp vì Hà Nội.

Có lẽ quan điểm tích cực nhất về cuộc xung đột Trung-Việt là của Chang Pao-min. Theo Chang, nếu nhìn nhận cuộc xung đột từ quan điểm của Bắc Kinh thì hiệp ước phòng thủ Việt-Xô năm 1978 là một mối đe dọa rõ ràng đối với an ninh của Trung Quốc. Không chỉ Liên Xô hy vọng sử dụng hiệp ước này để thiết lập một “Hệ thống An ninh Tập thể Châu Á” nhằm vào Trung Quốc, mà quan hệ quân sự của Liên Xô với Việt Nam còn được coi là một nỗ lực nhằm “đe dọa và âm mưu bóp nghẹt Trung Quốc từ phía nam.” Dưới góc độ này, Việt Nam sau này được tả trong các tuyên bố của Trung Quốc là “con dao của Liên bang Xô Viết đặt sau lưng Trung Quốc.” Do đó, đúng như Chang nhận xét, cuộc xung đột Trung-Việt phải được coi là một phản ứng trước nỗ lực của Liên Xô nhằm sử dụng Việt Nam để “kiềm chế và bao vây Trung Quốc ở Đông Nam Á … [do đó tạo ra] một mối đe dọa nghiêm trọng ở sườn phía nam của Trung Quốc.”

Các lập luận đưa ra trong bài viết này có xu hướng ủng hộ quan điểm rằng cuộc chiến tranh Trung-Việt tháng 2/1979 là một thành công. Một khi Bắc Kinh tin rằng Mátxcơva sẽ không can thiệp vì Hà Nội, việc này sẽ khuyến khích Bắc Kinh dứt hẳn với Mátxcơva. Việc này thể hiện rõ nhất trong tuyên bố ngày 3/4/1979 của Bắc Kinh rằng họ muốn chấm dứt Hiệp ước Xô-Trung năm 1950. Nêu ra bằng chứng cuối cùng rằng các chính sách của Trung Quốc ở Việt Nam có mối liên hệ chặt chẽ với Liên Xô, Amers đã nhận xét chính xác rằng quyết định năm 1988 của Trung Quốc không gắn quan hệ biên giới với Việt Nam với vấn đề Campuchia đã tương hợp gần như chính xác với các nỗ lực của Gorbachev nhằm bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc và cải thiện quan hệ của Liên Xô với các quốc gia ASEAN. Do vậy, bằng việc phá vỡ vòng vây của Liên Xô và loại bỏ mối đe dọa của Mátxcơva về một cuộc chiến tranh trên hai mặt trận, Trung Quốc đã đạt được một chiến thắng chiến lược quan trọng trước Liên Xô.

Liên Xô phải chăng là “gấu giấy”?

Hầu hết các học giả phương Tây đều có một kết luận chung rằng cuộc tấn công Việt Nam năm 1979 của Trung Quốc là một thất bại. Thí dụ, theo Gerald Segal, “cuộc chiến Trung-Việt năm 1979 là thất bại quan trọng nhất về chính sách đối ngoại của Trung Quốc kể từ năm 1949.” Ở một phạm vi rộng, Robert Ross đồng tình và cho rằng: “Thất bại trong chính sách của Trung Quốc cho thấy rõ vai trò không rõ ràng của cường quốc khu vực này trong chính trị quốc tế đương đại.” Gần đây nhất, Ellis Joffe, một chuyên gia về PLA tại đại học Hebrew University of Jerusalem, kết luận rằng: “Trung Quốc đã chuốc vạ bởi các biện pháp hạn chế chống Việt Nam năm 1979. Trung Quốc định dạy cho Việt Nam một bài học, nhưng Việt Nam đã dạy cho Trung Quốc một bài học." ("Strait of Uncertainty Taiwan braves increased pressure from China," Far Eastern Economic Review, 8 February 1996, 20-21.)

Các đánh giá tiêu cực này của phương Tây ngược lại hoàn toàn với tuyên bố của Bắc Kinh rằng cuộc chiến chống Việt Nam năm 1979 là một thành công, do quyết định không can thiệp của Mátxcơva đã chứng tỏ rằng Liên Xô chỉ là một “con gấu giấy”. Bắc Kinh có lẽ sẵn sàng chứng tỏ tuyên bố này bằng hành động, khi họ không chỉ công bố việc chấm dứt Hiệp ước Xô-Trung năm 1950 mà sau đó còn đặt ra cho Mátxcơva ba điều kiện để cải thiện quan hệ Xô-Trung. Ba điều kiện này bao gồm: 1) rút quân đội Liên Xô khỏi biên giới Xô-Trung và Mông Cổ; 2) rút quân đội Liên Xô khỏi Afghanistan; 3) chấm dứt sự ủng hộ của Liên Xô đối với việc Việt Nam chiếm đóng Campuchia. (Yao Wengin, "Soviet Military Deployments in the Asia-Pacific Region: Implications for China's Security," in Richard H. Solomon and Masataka Kosaka, eds., The Soviet Far East Military Buildup (Dover, MA., Auburn House Publishing Company, 1986), 103.)

Do đó, bên cạnh việc thể hiện một tư thế cứng rắn hơn trong quan hệ với Liên Xô, các nước láng giềng ở phía nam cũng phải cư xử với Trung Quốc một cách tôn trọng hơn. Theo một báo cáo năm 1986, do Hà Nội đã thua trong ván bạc năm 1979 khi cho rằng Bắc Kinh sẽ không bao giờ tấn công, Việt Nam, “với kinh nghiệm của năm 1979, đã triển khai 700,000 quân ở phía bắc.” (Karl D. Jackson, "Indochina, 1982-1985: Peace Yields to War," in Richard H. Solomon and Masataka Kosaka, eds., The Soviet Far East Military Buildup (Dover, MA., Auburn House Publishing Company, 1986), 206.)

Vai trò có tính chất khẳng định hơn của Trung Quốc ở châu Á trong những năm 1980 cho thây Bắc Kinh thực sự tin rằng họ đã giành chiến thắng trong cuộc chiến Trung-Việt năm 1979. Vì thế, mặc dù Nayan Chanda và những người khác đã cnảh báo rằng những tuyên bố của Trung Quốc rằng Liên Xô chỉ là “con gấu giấy” có thể chỉ là luận điệu tuyên truyền, nhưng những hành động của chính Bắc Kinh cho thấy rằng họ tin chắc vào quan điểm này. Chính vì lý do này mà các cuộc tranh luận gần đây xung quanh thời điểm Chiến tranh Lạnh thực sự kết thúc có vẻ như liên quan trực tiếp tới tuyên bố của Trung Quốc năm 1979 rằng Liên Xô đã quá yếu và không thể tham chiến. Thực tế, theo quan điểm của Trung Quốc, việc Liên Xô không can thiệp để giúp Việt Nam năm 1979 là bằng chứng chứng tỏ Mátxcơva không còn ý định tham gia một cuộc chiến tranh lớn. Nói cách khác, thời kỳ nguy hiểm nhất của Chiến tranh Lạnh đã qua đi.

Cho tới nay, cuộc tranh luận thường thấy về việc liệu Chiến tranh Lạnh có kết thúc trên thực tế trước khi Bức tường Berlin sụp đổ năm 1989 hay không đã diễn ra xung quanh những tuyên bố của tướng bốn sao về hưu của Liên Xô là Anatoly Gribkov, nguyên tham mưu trưởng của khối Hiệp ước Warsaw trong đầu những năm 1980. Gribkov lập luận dựa trên việc đến tháng 12/1981, Bộ Chính trị Liên Xô rõ ràng đã mất ý chí chính trị sử dụng vũ lực để duy trì đế chế mở rộng của họ trong vòng kiểm soát. Đánh giá này dựa trên việc Bộ Chính trị từ chối gửi quân tới Ba Lan để ngăn chặn một cuộc thay đổi dân chủ, một dấu hiệu của sự suy yếu mà Gribkov coi là bằng chứng cho thấy Liên Xô thực sự đã “thua” trong cuộc Chiến tranh Lạnh ngay từ năm 1981.("The Two Trillion Dollar Mistake," Worth, (February 1996), 78-83/128-129. )

Các biên bản được giải mật gần đây của một cuộc họp Bộ Chính trị Xô Viết ngày 10/12/1981 có xu hướng chứng tỏ cho các luận điểm của Gribkov, vì chúng cho thấy rằng lựa chọn gửi quân chống lại đảng “Đoàn kết” của Ba Lan đã bị Mátxcơva bác bỏ với sự đồng thuận rằng rủi ro là quá lớn. (Cold War International History Project Bulletin, Issue 5 (Spring 1995), 135-137) Ngoài ra, các biên bản này còn cho thấy Bộ Chính trị Liên Xô đã cân nhắc một cách nghiêm túc việc nhượng bộ ở Viễn Đông bằng việc ra lệnh rút quân khỏi Mông Cổ; nếu Mátxcơva thực hiện kế hoạch này trên thực tế thì coi như đã chấp nhận một trong ba điều kiện tiên quyết của Bắc Kinh cho việc cải thiện quan hệ Xô-Trung.

Các tài liệu này của Liên Xô, cũng như các tài liệu khác giống như thế, dường như chứng tỏ cho luận điểm của Gribkov rằng đến năm 1981, giới lãnh đạo Liên Xô đã mất khả năng sử dụng vũ lực nhằm củng cố lại đế chế Liên Xô đang lung lay. Cách suy luận này cũng có thể áp dụng cho cuộc xung đột Trung-Việt năm 1979, do việc Trung Quốc tấn công Việt Nam rõ ràng tạo ra một mối đe dọa thực tế đối với an ninh và ổn định cho không gian ảnh hưởng của Liên Xô ở Đông Nam Á. Chính việc Bộ Chính trị Liên Xô từ chối thực hiện các nghĩa vụ theo hiệp ước đối với Việt Nam và không can thiệp chống Trung Quốc cho thấy lập luận của Gribkov rằng Bộ Chính trị Liên Xô đã mất ý chí chính trị để củng cố đế chế của mình bằng vũ lực có thể được áp dụng tương đương - nếu không tốt hơn – cho kết quả của cuộc chiến Trung-Việt năm 1979.

Sự sụp đổ của Bức tường Berlin năm 1989 và sự sụp đổ bất ngờ của Liên Xô năm 1991 đòi hỏi phải có một đánh giá khác về tác động của mối quan hệ Xô-Trung đối với cuộc xung đột Trung-Việt tháng 2/1979. Một khía cạnh cần có trong đánh giá này là xem xét liệu tuyên bố năm 1979 của Trung Quốc rằng Liên Xô chỉ là “gấu giấy” là có căn cứ hơn hay không nếu xét việc Liên Xô tan rã sau đó. Mặc dù khẳng định của Gribkov rằng Chiến tranh Lạnh đã kết thúc từ năm 1981 có thể sớm hơn rất nhiều so với thời điểm mà hầu hết các học giả phương Tây có thể chấp nhận, nhưng vẫn còn muộn hơn mấy năm so với quan điểm của Trung Quốc. Do đó, khẳng định về thời điểm của Trung Quốc không những có vẻ hợp lý, mà đối với các học giả sau này thì năm 1979 một ngày nào đó sẽ chứng tỏ còn chính xác hơn năm 1981. Nếu như vậy, Bắc Kinh phải được đánh giá đúng vì đã xác định chính xác những dấu hiệu ở Viễn Đông về sự yếu kém trong nội bộ Mátxcơva từ hơn hai năm trước khi những dấu hiệu tương tự trở nên rõ ràng ở phương Tây. Điều này sẽ lại làm xuất hiện câu hỏi liệu “sự bắt đầu kết thúc” của Chiến tranh Lạnh có phải đã thực sự diễn ra vào năm 1979 hay không, do việc Mátxcơva đã không đương đầu với thách thức rắn mặt của Bắc Kinh đối với sự thống trị quân sự của Liên Xô ở Viễn Đông.

Kết luận

Các nghiên cứu trước đây về cuộc xung đột Trung-Việt ngày 17/2/1979 nhìn chung đều coi những hành động của Trung Quốc là một thất bại hoàn toàn. Ngược lại, bài viết này đã cố gắng đánh giá lại cuộc chiến Trung-Việt từ góc độ quan hệ Xô-Trung bằng việc liên hệ cuộc xung đột này với dấu mốc 29 năm ngày ký Hiệp ước Hữu nghị, Liên minh và Tương trợ 14/2/1950. Như một kết quả trực tiếp từ quyết định của Liên Xô không can thiệp giúp Việt Nam, Trung Quốc tin rằng Liên Xô không có đủ ý chí chính trị để dùng chiến tranh nhằm duy trì không gian ảnh hưởng của mình ở châu Á. Kết luận này đã khiến Bắc Kinh thông báo cho Mátxcơva ngày 3/4/1979 rằng Trung Quốc muốn chấm dứt Hiệp ước Xô-Trung năm 1950 khi hết thời hạn 30 năm vào năm 1980.

Từ 1950 đến 1979, Hiệp ước Hữu nghị, Liên minh và Tương trợ là nền móng cho quan hệ Xô-Trung. Mặc dù phần được phổ biến của hiệp ước này đã được công khai từ lâu, nhưng nội dung chính xác của các thỏa thuận bí mật đi cùng với hiệp ước này vẫn hầu như chưa được biết đến. Tuy nhiên, một điều khá rõ là các thỏa thuận bí mật này có liên quan đến các tranh chấp lãnh thổ Xô-Trung và trong những năm 1950, 1960, các cuộc tranh chấp biên giới thường xuyên giữa Liên Xô và Trung Quốc phản ánh mức độ căng thẳng mà các thỏa thuận bí mật này đưa đến. Mặc dù các xung đột biên giới Xô-Trung đều không được phép leo thang thành chiến tranh tổng lực, nhưng Bắc Kinh đã liên tục thử thách quyết tâm của Liên Xô xem có sẵn sàng sử dụng vũ lực để duy trì Hiệp ước Xô-Trung 1950 hay không. Do vậy, từ quan điểm của Bắc Kinh, Hiệp ước Xô-Trung 1950 là một công cụ chính cho Mátxcơva áp đặt “bá quyền” đối với Trung Quốc và phần còn lại của châu Á.

Ngược lại, Mátxcơva rõ ràng lo ngại điều gì có thể xảy ra khi Hiệp ước Xô-Trung kết thúc thời hạn 30 năm. Bắt đầu từ năm 1969, Liên Xô thường xuyên thúc giục Trung Quốc thay thế hiệp ước này bằng một thỏa ước mới. Để buộc Bắc Kinh phải xuống nước, Mátxcơva không những củng cố các đường biên giới Liên Xô-Trung Quốc và Mông Cổ-Trung Quốc, mà còn gây áp lực đối với Trung Quốc từ phía nam, bằng việc ký một hiệp ước liên minh với Việt Nam. Do vậy, việc cải thiện mối quan hệ Việt-Xô, đỉnh điểm là việc ký hiệp ước phòng thủ Việt-Xô ngày 3/11/1978, có thể được liên hệ trực tiếp tới mối quan hệ đang xấu đi giữa Trung Quốc với Liên Xô vào cuối những năm 1970. Tuy nhiên, thay vì xuống nước, Trung Quốc đã tấn công Việt Nam ngày 17/2/1979, chỉ ba ngày sau dấu mốc 29 năm ngày ký Hiệp ước Xô-Trung 1950. Khi Mátxcơva từ chối can thiệp giúp Hà Nội, Bắc Kinh quyết định rằng Bộ Chính trị Liên Xô sẽ không sử dụng chiến tranh để buộc Trung Quốc tiếp tục Hiệp ước Xô-Trung 1950 và củng cố quyết tâm để thông báo ngày 3/4/1979 ý định chấm dứt hiệp định này.

Một trong những mục tiêu chính của Bắc Kinh khi tấn công Việt Nam là để đảm bảo rằng Trung Quốc không bị bao vây cả ở phía bắc và phía nam bởi các lực lượng Liên Xô. Cuộc tấn công Việt Nam năm 1979 của Trung Quốc, với tất cả những khiếm khuyết rõ ràng của nó, đã thực sự đạt được mục tiêu chiến lược này do việc Liên Xô từ chối can thiệp giúp Việt Nam đã làm mất đi mối đe dọa về một cuộc chiến tranh trên hai mặt trận với Liên Xô và Việt Nam. Về mặt ngoại giao, Trung Quốc cũng giành được một chiến thắng rõ ràng trước các nỗ lực của Liên Xô muốn gây sức ép buộc Trung Quốc ký một hiệp ước mới thay thế hoặc củng cố Hiệp ước Hữu nghị, Liên minh và Tương trợ Xô-Trung ngày 14/2/1950. Cuối cùng, nhìn lại, khẳng định của Trung Quốc rằng Liên Xô chỉ là “gấu giấy” có vẻ như khác chính xác, và do đó cho thấy có lẽ là dấu hiệu đầu tiên từ bên ngoài rằng đế chế Liên Xô đang bị đe dọa bởi sự sụp đổ từ bên trong, một sự sụp đổ phải mười năm sau mới diễn ra với sự kiện bức tường Berlin năm 1989 và sự tan rã của Liên Xô năm 1991.

~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~

Sino-Soviet Relations and

the February 1979 Sino-Vietnamese Conflict

by Bruce Elleman

20 April 1996


Gerald Segal, in his 1985 book Defending China, concluded that China's 1979 war against Vietnam was a complete failure: "China failed to force a Vietnamese withdrawal from [Cambodia], failed to end border clashes, failed to cast doubt on the strength of the Soviet power, failed to dispel the image of China as a paper tiger, and failed to draw the United States into an anti-Soviet coalition."

In an attempt to challenge this view that Beijing's policy was a failure, this paper will strive to reevaluate the central role that Sino-Soviet relations played on China's decision to attack Vietnam. Most importantly, it will try to show that the timing of China's February 17th attack on Vietnam was linked to the 29th anniversary of the 1950 Sino-Soviet Treaty of Friendship, Alliance, and Mutual Assistance.

One should recall that on February 14, 1950 Beijing and Moscow signed a 30-year treaty that included secret protocols supporting the USSR's role as leader of the world communist movement. When Moscow later refused to renegotiate Sino-Soviet territorial disputes, this led to Sino-Soviet border clashes, most importantly during the late 1960s.

Western scholars have all too often overlooked that even during this period of Sino-Soviet tensions, the 1950 Sino-Soviet Treaty of Friendship, Alliance, and Mutual Assistance remained fully in force throughout this entire period of unrest. From Beijing's viewpoint at least, the 1950 Sino-Soviet treaty was a major instrument through which Moscow had tried to exert its "hegemony" over China.

Moscow was clearly concerned what might happen when the Sino-Soviet treaty reached its 30-year term. Beginning in 1969, the USSR frequently urged China to replace the 1950 treaty with a new agreement. During 1978, Soviet forces were increased along the Sino-Soviet and Sino-Mongolian borders. Moscow also sought to force Beijing to come to terms by intensifying diplomatic relations with Hanoi, signing a twenty-five year defense treaty with Vietnam on November 3, 1978.

Instead of backing down, however, China announced its intention to invade Vietnam on February 15, 1979, the very first day that it could legally terminate the 1950 Sino-Soviet Treaty and it attacked three days later. When Moscow did not intervene, Beijing publicly proclaimed that the USSR had broken its numerous promises to assist Vietnam. The USSR's failure to support Vietnam emboldened China to announce on April 3, 1979 that it intended to terminate the 1950 Sino-Soviet Treaty of Friendship, Alliance, and Mutual Assistance.

Instead of working under the assumption that China's 1979 invasion of Vietnam was a complete failure, this paper will try to show that one of the primary diplomatic goals behind China's attack was to expose Soviet assurances of military support to Vietnam as a fraud. Seen in this light, Beijing's policy was actually a diplomatic success, since Moscow did not actively intervene, thus showing the practical limitations of the Soviet-Vietnamese military pact. As a result, this paper will suggest that China achieved a strategic victory by minimizing the future possibility of a two-front war against the USSR and Vietnam and a diplomatic victory by terminating of the 1950 Sino-Soviet Treaty.

This paper will also reevaluate Beijing's claim that the USSR's failure to intervene against China proved that it was merely a "paper polar bear." Recently declassified archival documents from the USSR have tended to support China's claim, raising the important question of whether by 1979 Beijing had already correctly identified Far Eastern symptoms of Moscow's internal decay -- the same decay that eventually brought the Soviet government down in 1991 -- several years before similar evidence of this decay became widely available in the European theater. If so, then the possibility exists that the `beginning of the end' of the Cold War actually occurred in Asia.

A Brief History of Sino-Soviet Relations Through the Late 1960s

Sino-Soviet relations through the late 1960s were marred not only by sharp disagreement over the status of Outer Mongolia, but also by numerous territorial disputes along the Sino-Soviet border. In fact, these conflicts had festered beneath the surface of Russo-Chinese relations for over a century, ever since Imperial Russia forced China to sign a series of treaties ceding it vast territories. According to S. C. M. Paine's forthcoming book Imperial Rivals : "For China, the physical territorial losses were enormous: an area exceeding that of the United States east of the Mississippi River officially became Russian territory or, in the case of Outer Mongolia, a Soviet protectorate."

Following China's 1949 revolution, Mao Zedong journeyed to Moscow to negotiate a formal treaty with Stalin. After two months, the Sino-Soviet Treaty of Friendship, Alliance, and Mutual Assistance was completed and was signed on February 14, 1950. The duration of this treaty was thirty years, and clause number six specifically stated that if neither signatory announced their intention to terminate the treaty during its final year, then the alliance would automatically be extended for a further five years.

In fact, published versions of this Sino-Soviet treaty did not include many secret protocols. The Winter 1995 edition of Cold War International History Project Bulletin includes an account of Mao's description of the secret Sino-Soviet negotiations:

     During  the  negotiations, at Stalin's  initiative
there was undertaken an attempt by the Soviet
Union to assume sole ownership of the Chinese
Changchun (i.e. Harbin) Railway. Subsequently,
however, a decision was made about the joint
exploitation of the . . . Railway, besides which
the PRC gave the USSR the naval base in Port
Arthur, and four joint stock companies were opened
in China. At Stalin's initiative, . . . Manchuria
and Xinjiang were practically turned into spheres
of influence of the USSR.

Thus, although the public sections of the 1950 Sino-Soviet Treaty have long been known, an undetermined number of secret protocols were also signed; to date, copies of these protocols have never been published. (Bruce Elleman, "The End of Extraterritoriality in China: The Case of the Soviet Union, 1917-1960," Republican China (forthcoming, Spring 1996)

On February 15, 1950, Mao also grudgingly agreed to recognize the "independent status" of the MPR. This admission was a far cry from recognizing Mongolia's complete independence from China, however, since Mao firmly believed that the Soviet government had earlier promised to return Mongolia to China. Based on Mao's later complaints, Mao must have received assurances from Stalin that Mongolia's status, as well as the exact location of the Sino-Mongolian and Sino-Soviet borders, would be discussed at future meetings. Thus, it was Moscow's refusal to open negotiations with Beijing eventually led to border clashes during the 1950s and 1960s. Although the Sino-Mongolian border was resolved in 1962, Mao publicly denounced Soviet encroachments on Chinese territory and he protested Soviet control of Mongolia: "[T]he Soviet Union, under the pretext of assuring the independence of Mongolia, actually placed the country under its domination."

During the late 1960s, in a series of border incidents along the Ussuri and Amur rivers the People's Liberation Army (PLA) showed surprising tenacity against the Red Army. These conflicts were small in scope and the outcome proved to be inconclusive, but they led to later territorial conflicts in Xinjiang along China's border with the USSR.

Although tension in Sino-Soviet relations was so great that many Western scholars referred to it as a "split," the 1950 Sino-Soviet Treaty continued to exist. In fact, this treaty, including both the publicly released terms and the secret protocols, was still the foundation on which Sino-Soviet relations rested. This foundation was unstable from the very beginning, however, since the USSR refused to return Tsarist Russia's ill-gotten gains to China's communist leadership. Arguably it was this issue, more than any other, that led China's leaders to condemn Soviet "hegemonism" in the Far East. It was also this issue that was destined to sour China's relations with Vietnam during the 1970s.

Sino-Soviet Relations During the 1970s

Sino-Soviet border disputes during the late 1960s were particularly disturbing to Moscow and Beijing, since both the USSR and China were now nuclear powers; apparently an informal consensus was reached that neither side would resort to air power. (Christian F. Ostermann, "New Evidence on The Sino-Soviet Border Dispute," Cold War International History Project Bulletin, Issue 5 (Spring 1995), 186-193.)

These Sino-Soviet border conflicts had enormous social repercussions, however, forcing both countries to divert scarce resources to prepare for a possible nuclear war or for future military escalation along their mutual borders. The PLA's new-found confidence that it could counter the Red Army also gave Beijing the opportunity during 1971 to adopt a new foreign policy initiative by promoting friendly relations with the United States.

In addition, China tried hard to improve its relations with Japan, signing a treaty in August 1978 which appeared to be critical of the Soviet Union's foreign policy in Asia by specifically condemning "hegemonism." Finally, Sino-Soviet tensions also spawned a number of Southeast Asian proxy wars, such as the late 1970s' conflict between Cambodia and Vietnam, as well as forcing China to accept its role as a regional power, best shown by its 1979 invasion of Vietnam to undermine the USSR's growing influence.

Throughout the 1970s, Sino-Soviet tensions remained high. During this period, Moscow tried to convince Beijing to negotiate a new agreement that would either support, or even replace, the 1950 Sino-Soviet Treaty. Beginning in 1969 and 1970, Moscow proposed that the two sides promise not to attack each other, and especially not to ever resort to the use of nuclear weapons. When Beijing did not show any interest in this accord, however, Moscow suggested in 1971 that the two countries sign a new treaty that would disavow force altogether. Thereafter, in 1973 Moscow showed its concern by specifically proposing that the two countries sign a non-aggression pact; Beijing continued to ignore Moscow's advances.

As the end of the Sino-Soviet Treaty's 30-year term neared, the USSR's efforts to replace this treaty increased dramatically. For example, on 24 February 1978, Moscow publicly proposed that the two governments issue a statement of principles which would regulate Sino-Soviet relations. This statement of principles would include: 1) equality, 2) mutual respect for sovereignty and territorial integrity, 3) noninterference in each other's internal affairs, and 4) the nonuse of force. Moscow clearly hoped that such a statement could be used in place of the 1950 Sino-Soviet Treaty to regulate Sino-Soviet relations. The ultimate goal of the USSR's proposals, however, was clearly to limit, or perhaps even to reduce, China's growing influence throughout Asia. (According to Chang Pao-min, this aspect of the Soviet policies towards China was most attractive to the the Vietnamese, even quoting one Vietnamese official as stating: "There is a tangibly strong Soviet interest coinciding with Vietnamese interests - to reduce Chinese influence in this part of the world." Chang Pao-min, Kampuchea Between China and Vietnam (Singapore, Singapore University Press, 1985), 46-47.)

Beijing refused all of Moscow's proposals, however, and throughout the 1970s China's condemnation of the USSR became more vocal. For example, during February 1974, Mao Zedong publicly called for a "third world" coalition against the so-called "first world," in this case including both the USSR and the USA. After Mao's death, however, a 1 November 1977 issue of Renmin Ribao, identified the USSR as China's most dangerous enemy while the United States was now considered an ally. All of the socialist countries -- including especially Vietnam ( "The breakdown of Vietnam's relations with China after 1975 and Vietnam's current pro-Soviet alignment may be traced to Vietnamese resistance to Chinese pressures to take sides." Ramesh Thaku and Carlyle Thayer, Soviet Relations with India and Vietnam (New York, St. Martin's Press, 1992), 287.) -- were also considered potential allies in a proposed "united front" against the USSR. Finally, on 26 March 1978, China's Ministry of Foreign Affairs demanded that Moscow, in addition to recognizing the existence of "disputed areas" along the Sino-Soviet border, must completely withdraw Soviet troops from the MPR, as well as pulling them back from along the entire Sino-Soviet border.

In response to China's demands, Leonid Brezhnev, the General Secretary of the CPSU Central Committee, visited Siberia during early April 1978, and announced that new, more advanced equipment had been provided to missile units stationed along the Sino-Soviet border. These new weapons, Brezhnev announced, would be instrumental in "securing ourselves and our socialist friends against possible aggression, whatever the source." Soon afterwards, on 12 April 1978, Ulan Bator also publicly protested Beijing's demands, stating that additional Soviet troops had been stationed along the Sino-Mongolia border at Mongolia's request in order to offset increased Chinese troop concentrations to the south of the border.

As these events quite clearly show, by 1978 Sino-Soviet border tensions had dramatically intensified, mainly due to increased Soviet troop concentrations along the Sino-Soviet border and in the MPR. To a large degree, this situation can be explained by Moscow's continuing attempts to pressure Beijing not to terminate the 1950 Sino-Soviet Treaty, which could be terminated for the very first time in 1979, or -- better yet -- to negotiate a new treaty which would outline principles on which future Sino-Soviet relations would be based. Brezhnev's announcement that he intended to use Soviet forces against China on behalf of Moscow's "socialist friends" was also a warning to Beijing to keep its hands off the MPR as well as Moscow's allies in Southeast Asia.

China not only did not buckle under the USSR's diplomatic and military pressure, but Beijing tried to exert diplomatic pressure on Moscow in turn by working hard to solidify its relations with both the United States and Japan. Arguably, Beijing's policy was the more successful of the two, resulting in Beijing concluding landmark agreements with both Washington and Tokyo. To Moscow, it must have seemed clear that China's new agreements were directed against the USSR, since -- in the case of the Sino-Japanese treaty at least -- the two sides specifically condemned "hegemonism," the oft-used Chinese code word for Soviet expansionism. The USSR response was to strengthen its diplomatic relations with all of the Southeast Asian countries bordering on China, and most importantly among them, with Vietnam.

Sino-Soviet Relations and Vietnam Through February 1979

Although China may not have been a participant in the Vietnam conflict during the 1960s and 1970s, China's economic and material support for Vietnam played a crucial role. Not only did China send troops to Vietnam to help maintain supply lines, but Beijing's estimate of its support for Hanoi between 1950 to 1978 exceeded $20 billion. (King C. Chen, China's War with Vietnam, 1979 (Stanford, CA, Hoover Institution Press, 1987), 27) It is not hard to understand, therefore, why Beijing might be miffed at improving relations between Moscow and Hanoi during the late 1970s.

This was especially true after the two countries signed a mutual defense treaty on 3 November 1978 that was specifically aimed at China. According to one scholar, this Soviet-Vietnamese alliance made Vietnam the "linchpin" in the USSR's "drive to contain China." (Robert A. Scalapino, "The Political Influence of the USSR in Asia," in Donald S. Zagoria, ed., Soviet Policy in East Asia (New Haven, Yale University Press, 1982), 71.) From Beijing's perspective, therefore, Moscow's attempt to surround China diplomatically appeared to be on the verge of succeeding. This realization sparked China's invasion of Vietnam in February 1979.

Although diplomatic relations between Beijing and Hanoi during the 1960s and early 1970s were generally good, policy differences between China and Vietnam widened after the April 1975 fall of Saigon. In September of that year, Le Duan, the secretary-general of the Communist Party of Vietnam (CPV), traveled to Beijing and during the series of meetings that followed Le Duan's arrival it became clear that China was very concerned about Vietnam's close relations with the USSR. Although relations continued to worsen during the following years, the rift between China and Vietnam first became apparent only when thousands of ethnic Chinese began to flee Vietnam during the spring and summer of 1978. In addition, territorial disputes over the Spratly Islands, as well as over Vietnam's recent invasion of Cambodia, also increased Sino-Vietnamese tensions.

Meanwhile, increasing signs of Soviet-Vietnamese cooperation also appeared during the summer of 1978, as Vietnam asked to become a member of Comecon. In addition, government sources in the United States reported that by August 1978 as many as 4,000 Soviet advisors were in Vietnam. During September 1978, the USSR began carrying out increased arms shipments to Vietnam, both by air and by sea, which included "aircraft, missiles, tanks, and munitions." Finally, all of these signs of improving Soviet-Vietnamese relations came to fruition on 3 November 1978, when Vietnam and the USSR signed a Treaty of Friendship and Cooperation. There was no doubt that this treaty was aimed at China, since the sixth clause stated that Vietnam and the USSR would "immediately consult each other" if either is "attacked or threatened with attack . . . with a view to eliminating that threat." Reportedly, this treaty also included a secret protocol granting Soviet military forces access to Vietnam's "airfields and ports." (Ramesh Thaku and Carlyle Thayer, Soviet Relations with India and Vietnam (New York, St. Martin's Press, 1992), 61.)

Although Vietnam claimed that it signed this treaty with the USSR to stop Chinese "adventurist" acts, Chinese leaders in Beijing undoubtedly saw this as part of Moscow's efforts to pressure China into backing down and renewing the unequal terms of the 1950 Sino-Soviet Treaty. If the USSR were able to establish a foothold in southeast Asia, it could flank China on both its northern and southern borders. If successful, this policy might give Moscow sufficient leverage to force Beijing into renewing, or at least renegotiating, the 1950 Sino-Soviet Treaty on Moscow's terms. An early indicator of Beijing's concern over the Soviet-Vietnamese Treaty was voiced by Renmin Ribao which warned that Moscow was using Vietnam against China as it had earlier tried -- and failed -- to use Cuba to exert diplomatic pressure against the United States. Beijing also warned that Moscow's ultimate goal was to "bring the whole of Indochina under its control."

By signing the Soviet-Vietnamese defense treaty on 3 November 1978, the USSR hoped to use its relations with Vietnam to outmaneuver and outflank China. China's main concern was that if the USSR's policies in Vietnam were successful, then the Soviet government might achieve a strategic and military stranglehold over China. Ever since the Sino-Soviet rift, and especially since the Sino-Soviet border conflicts of the late 1960s, Beijing's primary goal had been to build up its own military potential in order to face off the Soviet Red Army, a goal which it had largely achieved during the middle to late 1960s, early 1970s, when the PLA's strength reportedly reached 3.6 million men. Diplomatically, Beijing continued to try to flank Moscow by officially normalizing its relations with Washington on 1 January 1979. Ramses Amer has concluded that the USSR's and China's new alliances were closely linked: "Thus two strategic alliances had been created in the closing months of 1978, a Soviet-Vietnamese alliance and a Sino-American alliance, and they would prevail for about a decade."

As a result of the Sino-American rapprochement in early 1979, Moscow's concern about a two-front war with American-led NATO forces in the west and Chinese forces in the east was increased. This may have convinced Moscow to increase its support for Vietnam's ongoing invasion of Cambodia, an event that Robert Ross has closely linked with China's subsequent attack on Vietnam when he argued that the unraveling of China's close ally in Cambodia greatly concerned Beijing. While Beijing was unwilling to intervene directly in Cambodia to stop Vietnamese encroachment, China's military invasion into disputed Sino-Vietnamese territory was in fact closely "synchronized" with Vietnam's invasion in Cambodia. Ross has further concluded that the ongoing disputes over Cambodia and the Sino-Vietnamese border had an "organic connection," as Chinese leaders warned Vietnam not to mistakenly think that China was "weak and easily bullied."

In the final analysis, however, Vietnam was a relatively small country both in terms of population and military strength, and it was probably the sudden arrival of large numbers of Soviet advisors -- an estimated 5,000-8,000 by mid-1979 -- and enormous quantities of military supplies that boded ill for China's immediate strategic security; thus, according to King C. Chen: "Had there been no Soviet-Vietnamese alliance, the sixteen-day war between China and Vietnam might not have been fought." In a clear admission that the USSR's military cooperation with Vietnam deeply concerned China, Deng Xiaoping publicly acknowledged that this new Soviet-Vietnamese "military alliance" was really just part of the USSR's long-time goal of wanting to "encircle China."

Following the signing of the 3 November 1978 Soviet-Vietnamese Treaty, Beijing had to find a way to break this Soviet attempt to encircle China. Thus, it was fear of being outflanked by Moscow that was instrumental in pushing Beijing into action. Clearly, China's first step was to test the USSR's resolve to see whether it would stand by its treaty with Vietnam or whether it would back down and accept defeat. Deng Xiaoping even reportedly told President Carter in January 1979 that a war between China and Vietnam would "disrupt Soviet strategic calculations . . . " As a result, even Ross has concluded that in the wake of Vietnam's successful occupation of Cambodia, it was "the resultant Soviet encirclement of China [that] necessitated a limited invasion of Vietnam."

The 1979 Sino-Vietnamese War

Chinese forces invaded Vietnam on 17 February 1979. Although the exact motives underlying China's attack are still open to interpretation, Beijing's concern that Moscow's twenty-five year defense treaty with Hanoi might lead to the Soviet militarization of the Sino-Vietnamese border was certainly a major factor; Moscow probably also hoped that its treaty with Hanoi would divert Chinese troops away from the north, thus weakening China's military defense along the Sino-Soviet border.

Moscow's hopes were dashed, however, when Beijing decided to attack Vietnam. After only three weeks of fighting, China withdrew and disputes over the Sino-Vietnamese border remained unresolved. To most outsiders, China's military action thus appeared to be a failure. But, if the real goal behind China's attack was to expose Soviet assurances of military support to Vietnam as a fraud, then the USSR's refusal to intervene effectively terminated the Soviet-Vietnamese defense treaty. Thus, Beijing did achieve a clear strategic victory by breaking the Soviet encirclement and by eliminating Moscow's threat of a two-front war.

On 15 February 1979, not only the 29th anniversary of the Mao-Stalin agreement on Mongolia but also the first day that China could have officially announced the termination of the Sino-Soviet Treaty of Friendship, Alliance, and Mutual Assistance, Deng Xiaoping declared that China planned to conduct a limited attack on Vietnam. To prevent Soviet intervention on Vietnam's behalf, Deng warned Moscow the next day that China was prepared for a full-scale war against the USSR; in preparation for this conflict, China put all of her troops along the Sino-Soviet border on an emergency war alert, set up a new military command in Xinjiang, and even evacuated an estimated 300,000 civilians from the Sino-Soviet border.(Chang Pao-min, Kampuchea Between China and Vietnam (Singapore, Singapore University Press, 1985), 88-89.)

In addition, the bulk of China's active forces (as many as one-and-a-half million troops) were stationed along China's borders with the USSR. (Robert A. Scalapino "Asia in a Global Context: Strategic Issue for the Soviet Union," in Richard H. Solomon and Masataka Kosaka, eds., The Soviet Far East Military Buildup (Dover, MA. , Auburn House Publishing Company, 1986), 28.)

As promised, China's military offensive against Vietnam began on 17 February 1979, within three days of the 29th anniversary of the 1950 Sino-Soviet Treaty. As Deng had announced, from the very beginning China conducted a limited action against Vietnam. Not only were many of China's best troops stationed along the Sino-Soviet border, but Beijing decided not to deploy the estimated 500 fighters and bombers it had stationed in the area. In response to China's attack, the USSR sent several naval vessels and initiated a Soviet arms airlift to Vietnam. On 22 February 1979, Colonel N. A. Trarkov, the Soviet military attach‚ in Hanoi, even threatened that the USSR would "carry out is obligations under the Soviet-Vietnam treaty;" elsewhere, however, Soviet diplomats made it clear that the USSR would not intervene as long as the conflict remained limited. (John Blodgett, "Vietnam: Soviet Pawn or Regional Power?" in Rodney W. Jones and Steven A. Hildreth, eds., Emerging Powers Defense and Security in the Third World (New York, Praeger Publishers, 1986), 98). The USSR clearly had no intention of risking a full-scale war with China for the sake of Vietnam.

After three weeks of intense fighting, China could claim that it captured three of Vietnam's six provincial capitals -- Cao Bang, Lang Son, and Lao Cai -- that bordered on China. Although the Chinese forces totaled over a quarter million men, the Vietnamese turned to guerrilla tactics to rob China of a quick victory. When Beijing announced its intention to withdraw its troops on 5 March 1979, therefore, it appeared that the primary goals of this offensive had yet to be achieved; namely, Vietnam's military potential had not been seriously damaged by China. Thereafter, the Sino-Vietnamese border remained tense when, after less than three weeks of fighting, China withdrew from Vietnam.

To many outside observers, it appeared that China's attack against Vietnam was a complete and total failure. But, as Banning Garrett has correctly observed, the "Chinese demonstrated that they could attack a Soviet ally without retaliation from the `paper polar bear'." (Banning Garrett, "The Strategic Triangle and the Indochina Crisis," in David W. P. Elliott, ed., The Third Indochina Conflict, (Boulder, CO, Westview Press, 1981), 212.)

In fact, by proving that the USSR would not actively intervene on Vietnam's behalf, China was convinced that its termination of the 1950 Sino-Soviet Treaty would also not lead to war. As a result, on 3 April 1979, Beijing announced its intentions to terminate the 1950 Sino-Soviet Treaty of Friendship, Alliance, and Mutual Assistance. Thereafter, although Sino-Soviet negotiations were officially opened during October 1979, the Soviet invasion of Afghanistan gave China a pretense for calling off future meetings, thereby precluding any immediate need to negotiate a new Sino-Soviet diplomatic treaty.

Because the exact motives underlying China's 1979 invasion of Vietnam have remained unclear, scholars studying this conflict have proposed many plausible sounding theories. Perhaps the most common has been that China wanted to "punish" Vietnam for invading Cambodia, an area which had formerly been considered a tributary state to the Chinese empire. Other Sino-Vietnamese problems, such as territorial disputes over the Spratly Islands or the mass exodus of Chinese nationals from Vietnam, have also been portrayed as playing a major role. Most convincing, however, have been the relatively small number of scholars who have argued that Vietnam's decision to promote closer relations with the USSR was the primary reason behind China's attack.

Among those scholars who have hypothesized that China's actions were a response to the 3 November 1978 Soviet-Vietnamese defense treaty, there have been a wide range of interpretations as to whether China's policy was a success or a failure. For example, according to Gerald Segal, China's policy failed because it did not put the Soviet-Vietnamese defense treaty to the "ultimate test." Robert Ross also concluded that China's policy was a failure, although he was more positive than Segal by granting that the Sino-Vietnamese war was the first time since 1949 that China had used force when its territory was not directly threatened, thus proving that China was now capable of "acting like a regional power with regional interests." Finally, Banning Garrett and Nayan Chanda have been more positive, at least acknowledging Chinese claims that the abortive Sino-Vietnamese war was a success because it proved that the USSR was a "paper polar bear" since Moscow refused to carry out its treaty obligation to intervene on Hanoi's behalf.

Perhaps the most positive view of the Sino-Vietnamese conflict comes from Chang Pao-min. According to Chang, when one considers this conflict from Beijing's point of view, then the 1978 Soviet-Vietnamese defense treaty was a clear threat to China's security. Not only did the USSR hope to use this treaty to set up an "Asian Collective Security System" aimed at China, but its military relations with Vietnam were described as an attempt to "threaten and attempt to pin down China from the south;" in this regard, Vietnam was described in later Chinese statements as "the knife the Soviet Union has at China's back." As Chang observed, therefore, the Sino-Vietnamese conflict must be seen as a reaction to the Soviet Union's attempt to use Vietnam "to contain and encircle China in Southeast Asia . . . [thus posing] a serious threat to China's southern flank."

The arguments presented in this paper tend to support the view that China's February 1979 war with Vietnam was a success. Once Beijing was convinced that Moscow would not intervene on Hanoi's behalf, this emboldened Beijing to break with Moscow completely; this break can best be seen in Beijing's 3 April 1979 announcement that it intended to terminate the 1950 Sino-Soviet Treaty. As final proof that China's policies in Vietnam were inextricably linked with the USSR, Amers has accurately noted that China's 1988 decision to disengage its border relations with Vietnam from the issue of Cambodia corresponded almost exactly with Gorbachev's attempts to normalize relations with China and improve the USSR's relations with the ASEAN states. Thus, by breaking the Soviet encirclement and eliminating Moscow's threat of a two-front war, China achieved a significant strategic victory against the USSR.

Was the USSR a "Paper Polar Bear"?

Western scholars have almost universally concluded that China's 1979 invasion of Vietnam was a failure. For example, according to Gerald Segal, "the 1979 Sino-Vietnamese war was China's most important foreign policy failure since 1949." To a large degree Robert Ross agreed, stating: "The failure of Chinese policy underscores the ambiguous role of the regional power in contemporary international politics." Most recently, Ellis Joffe, a specialist on the PLA at the Hebrew University of Jerusalem, concluded: "China got burned by limited measures against Vietnam in 1979. China was going to teach Vietnam a lesson, but Vietnam taught China a lesson." ("Strait of Uncertainty Taiwan braves increased pressure from China," Far Eastern Economic Review, 8 February 1996, 20-21.)

These negative Western assessments are in sharp contrast to Beijing's own claims that its 1979 war against Vietnam was a success, since Moscow's decision not to intervene proved that the USSR was merely a "paper polar bear." Beijing apparently was willing to back up this claim with action, when it not only announced the termination of the 1950 Sino-Soviet Treaty but then later delivered to Moscow three preconditions for improving Sino-Soviet relations. These three preconditions included: 1) withdrawing Soviet troops from the Sino-Soviet border and Mongolia, 2) withdrawing Soviet troops from Afghanistan, and 3) stopping Soviet support for Vietnam's incursion into Cambodia. (Yao Wengin, "Soviet Military Deployments in the Asia-Pacific Region: Implications for China's Security," in Richard H. Solomon and Masataka Kosaka, eds., The Soviet Far East Military Buildup (Dover, MA., Auburn House Publishing Company, 1986), 103.)

In addition to adopting a more assertive posture in its relations with the USSR, therefore, China's southern neighbors have also been forced to treat her with more respect; according to one 1986 report, because Hanoi lost its 1979 gamble that Beijing would never actually attack, Vietnam, "chastened by the experience of 1979, now stations 700,000 combat troops in the northern portion of the country." (Karl D. Jackson, "Indochina, 1982-1985: Peace Yields to War," in Richard H. Solomon and Masataka Kosaka, eds., The Soviet Far East Military Buildup (Dover, MA., Auburn House Publishing Company, 1986), 206.)

China's more assertive role in Asia during the 1980s suggests, therefore, that Beijing actually believed that it was victorious in the 1979 Sino-Vietnamese war. Thus, although Nayan Chanda and others have warned that Chinese claims that the USSR was merely a "paper polar bear" may simply have been propaganda, Beijing's own actions indicate that they firmly believed this view. It is for this reason that recent discussions about when the Cold War really ended would appear to have a direct bearing on Beijing's 1979 claim that Moscow was already too weak to fight. In fact, according to China's view, the USSR's failure to intervene on Vietnam's behalf in 1979 was proof positive that Moscow no longer had the stomach to fight a major war; in other words, the most dangerous era of the Cold War was already over.

Until now, popular discussion of whether the Cold War was actually over earlier than the 1989 fall of the Berlin Wall has revolved around statements made by retired four-star Soviet General Anatoly Gribkov, who was the former chief of staff of the Warsaw Pact during the early 1980s. Gribkov bases his arguments on the fact that by December 1981, the Soviet Politburo had clearly lost the political will to use force to keep their extended empire in line. This assessment was made based on the Politburo's refusal to send troops to Poland to thwart a democratic takeover, a sign of weakness that Gribkov points to as evidence that the USSR actually "lost" the Cold War as early as 1981.("The Two Trillion Dollar Mistake," Worth, (February 1996), 78-83/128-129. )

Recently declassified minutes of a Soviet Politburo meeting from 10 December 1981 tend to support Gribkov's claims, by showing that the option of sending troops against Poland's "Solidarity" party was unanimously rejected by Moscow as too great a risk. (Cold War International History Project Bulletin, Issue 5 (Spring 1995), 135-137) In addition, these minutes reveal that the Politburo seriously considered backing down in the Far East by ordering the withdrawal of Soviet troops from Mongolia; if Moscow had actually carried out this plan, then it would have been acceding to one of Beijing's three preconditions for improving Sino-Soviet relations.

These Soviet documents, and others like them, appear to support Gribkov's claim that by 1981 the Soviet leadership had already lost the ability to use force in order to shore up the crumbling Soviet empire. This exact same reasoning could also be applied to the 1979 Sino-Vietnamese conflict, since China's invasion of Vietnam clearly posed a real threat to the security and stability of the USSR's sphere of influence in Southeast Asia. The very fact that the Soviet Politburo declined to carry through on its treaty obligations to Vietnam and refused to intervene against China would suggest that Gribkov's argument that the Soviet Politburo had lost the political will to hold its empire together by force could be equally -- if not better -- applied to the outcome of the 1979 Sino-Vietnamese war.

The fall of the Berlin Wall in 1989 and the USSR's unexpected collapse in 1991 demands a new assessment of the impact of Sino-Soviet relations on the February 1979 Sino-Vietnamese conflict. One facet of this assessment must be to consider whether China's 1979 claim that the USSR was already a "paper polar bear" now appears more plausible in light of the USSR's subsequent dissolution. Although Gribkov's claim that the Cold War was already over in 1981 may be far earlier than most Western scholars have been willing to accept, it is several years later than China's view. In hindsight, China's 1979 date not only appears plausible, therefore, but to future scholars the year 1979 may one day prove to be even more accurate than 1981. If so, then Beijing must be given proper credit for correctly identifying Far Eastern symptoms of Moscow's internal weakness more than two years before similar indications became discernible in the West. This then raises the question of whether `the beginning of the end' of the Cold War really took place in 1979, as a result of Moscow's refusal to accept Beijing's boldfaced challenge to the USSR's military supremacy in the Far East.

Conclusion

Previous studies of the 17 February 1979 Sino-Vietnamese conflict have generally portrayed China's actions as an absolute failure. This paper, by contrast, has attempted to reevaluate the Sino-Vietnamese war in terms of Sino-Soviet relations by linking this conflict to the 29th anniversary of the signing of the 14 February 1950 Sino-Soviet Treaty of Friendship, Alliance, and Mutual Assistance. As a direct result of the USSR's decision not to intervene on Vietnam's behalf, China became convinced that the USSR lacked the political will to resort to war in order to sustain the Soviet sphere of influence in Asia. This conviction led Beijing to inform Moscow on 3 April 1979 that China intended to terminate the 1950 Sino-Soviet Treaty upon reaching its 30-year term in 1980.

From 1950 through until 1979, the Sino-Soviet Treaty of Friendship, Alliance, and Mutual Assistance was the foundation on which Sino-Soviet relations rested. Although the published sections of this treaty have long been available, the exact content of the secret protocols that were attached to this treaty are still largely unknown. That these secret protocols related to Sino-Soviet territorial disputes is fairly clear, however, and during the 1950s and 1960s frequent border disputes between the USSR and China reflected the degree of tension that these secret protocols produced. Although none of the Sino-Soviet border conflicts were allowed to escalate into all-out war, Beijing was continually testing the USSR's resolve to see whether it would resort to force to uphold the terms of the 1950 Sino-Soviet Treaty. Thus, from Beijing's point of view, the 1950 Sino-Soviet Treaty was the major tool through which Moscow tried to exert its "hegemony" over China and throughout the rest of Asia.

Moscow, by contrast, was clearly concerned what might happen when the Sino-Soviet Treaty reached its 30-year term. Beginning in 1969, the USSR frequently urged China to replace this treaty with a new agreement. To force Beijing to retreat, Moscow not only fortified the Sino-Soviet and Sino-Mongolian borders, but it also exerted pressure on China from the south, by completing a treaty of alliance with Vietnam. Thus, the improvement in Soviet-Vietnamese relations, culminating in the signing of the 3 November 1978 Sino-Vietnamese defense treaty, can be directly linked to China's worsening relations with the USSR during the late 1970s. Instead of backing down, however, China invaded Vietnam on 17 February 1979, just three days after the 29th anniversary of the signing of the 1950 Sino-Soviet Treaty. When Moscow refused to intervene on Hanoi's behalf, Beijing decided that the Soviet Politburo would not resort to war to force China to retain the 1950 Sino-Soviet Treaty and so was emboldened to announce on 3 April 1979 that it intended to terminate this treaty.

One of Beijing's primary goals in attacking Vietnam was to insure that China was not surrounded on both the north and south by Soviet forces. China's 1979 invasion of Vietnam, for all of its obvious failings, did achieve this strategic objective since the USSR's refusal to intervene on Vietnam's behalf undermined the threat of a two-front war with the USSR and Vietnam. Diplomatically, China also won a clear victory against Soviet attempts to pressure her into signing a new treaty to replace or augment the Sino-Soviet Treaty of Friendship, Alliance, and Mutual Assistance of 14 February 1950. Finally, in hindsight, China's claim that the USSR was really just a "paper polar bear" appears to have been fairly accurate, and thus represents perhaps the first outside indicator that the Soviet empire was threatened by internal collapse, a collapse that only became evident ten years later with the 1989 fall of the Berlin Wall and with the 1991 dissolution of the USSR.

Source: http://www.vietnam.ttu.edu/vietnamcenter/events/1996_Symposium/96papers/elleviet.htm

No comments:

Post a Comment